Tin Biển Đông – 30/08/2019
Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2019
18:05
//
Biển Đông
,
Slider
Tàu cá TQ tràn xuống Biển Đông
tàn phá môi trường sinh thái
Sau khi “Lệnh cấm đánh cá” hàng năm do Trung Quốc đơn phương áp đặt trái phép trên Biển Đông hết hiệu lực, hàng ngàn tàu cá của Trung Quốc đã tràn xuống Biển Đông để tận diệt nguồn hải sản trong khu vực, đe dọa nghiêm trọng đối với hệ sinh thái và gây căng thẳng mới trên biển.
Sau khi “Lệnh cấm đánh cá” hết hiệu lực, khoảng hơn một ngàn tàu cá Trung Quốc từ khu vực miền Nam nước này đã hướng tới khu vực Vịnh Bắc Bộ và các vùng biển có tranh chấp. Theo truyền thông Trung Quốc, dự kiến khoảng 3.000 tàu cá Trung Quốc sẽ ra khơi trong những ngày đầu tiên sau khi lệnh cấm đánh bắt cá được dỡ bỏ.Việc tàu cá Trung Quốc ồ ạt đổ xuống Biển Đông khiến căng thẳng trong khu vực có thể tiếp tục dâng cao hơn nữa.
Được biết, từ năm 1999 đến nay, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đều đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông. Trung Quốc thường tuyên truyền về cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông là lợi ích sinh thái, kinh tế, xã hội và sự hoan nghênh rộng rãi cộng đồng ngư dân. Tuy nhiên, trên thực tế, hành động đơn phương này của Trung Quốc không chỉ vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại DOC mà còn xâm phạm chủ quyền của các nước ven Biển Đông.
Theo các quy định của luật quốc tế, cấm đánh bắt cá là một trong những chính sách phổ biến của nhiều quốc gia giáp biển. Lệnh cấm này nhằm mục đích bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, dựa trên các văn bản pháp luật quốc tế như: Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS); Hiệp định về các loài cá di cư của LHQ 1995; Công ước bảo vệ đa dạng sinh học (CBD); Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật đang bị nguy cấp (CITES) và Công ước về các loài di cư (CMS).Theo các quy định trên, thì lệnh cấm đánh bắt cá được áp dụng trong 2 điều kiện là: Các quốc gia ven biển chỉ có quyền đánh bắt cá trong phạm vi vùng biển mà quốc gia đó chủ quyền và quyền tài phán, thường chủ yếu là vùng đặc quyền kinh tế; Lệnh cấm đánh bắt cá phải dựa trên các số liệu khoa học, trên cơ sở trao đổi thường xuyên với các tổ chức trong khu vực và quốc tế, ngoài ra phải có sự tham vấn của các quốc gia liên quan. Trước khi áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá, thì quốc gia đó phải thông báo công khai, thông tin đầy đủ khu vực, nội dung đánh bắt cá với ngư dân trong nước và tham vấn với các nước trong khu vực.Việc tham vấn với các quốc gia có liên quan đặc biệt quan trọng và trở thành nghĩa vụ trong trường hợp quy định cấm đánh bắt cá được áp dụng với các loài cá có khả năng di cư xa hoặc sinh sống trên khu vực biển của nhiều quốc gia. Danh sách các loài cá có khả năng di cư xa, đang bị đe doạ hoặc sinh sống tại nhiều quốc gia được quy định rõ tại CBD, CMS và Hiệp định 1995. Ngoài ra, trước khi áp dụng, quốc gia ven biển có nghĩa vụ thông báo công khai, đầy đủ thông tin về quy định cấm đánh bắt cá với ngư dân của nước mình và ngư dân của các nước khác được phép đánh bắt cá trong EEZ của nước mình.
Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ sở hữu hợp pháp 13% diện tích Biển Đông, tức là nếu áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá theo quy định quốc tế, thì nước này chỉ được cấm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Nhưng Bắc Kinh lại ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với 90% khu vực của Biển Đông (hơn 3 triệu km2), vi phạm nghiêm trọng UNCLOS và xâm hại đến vùng đặc quyền kinh tế mà các nước trong khu vực đã tuyên bố chủ quyền. Việc Trung Quốc bất chấp bị phản đối và vi phạm luật quốc tế ra lệnh cấm đánh bắt cá là để thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc áp dụng và phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp để “giành lấy sự công nhận trên thực tế” yêu sách chủ quyền phi pháp trên Biển Đông. Trung Quốc muốn thông qua việc cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, đặc biệt là UNCLOS để tìm cách hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. Không những vậy, thông qua việc đưa ra quy định cấm đánh bắt cá hàng năm, Trung Quốc muốn phản biện lại phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016) bằng cách chứng minh “Trung Quốc là nước đang kiểm soát hiện hữu, lâu dài ở Biển Đông” và các thực thể địa lý (bị Tòa tuyên bố không phải đảo) đó hoàn toàn “thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng”. Ngoài ra, Trung Quốc muốn thông qua lệnh cấm đánh bắ cá mặc cả, răn đe, hăm dọa, mua chuộc các quốc gia, các công ty, các cá nhân đang thực hiện các dự án đầu tư khai thác tài nguyên trong phạm vi hoàn toàn nằm trong các vùng biển hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.
Hành vi của Trung Quốc đã xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông. Đầu tiên, lệnh cấm đánh bắt cá này là quyết định vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa vốn là một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam, song đã bị Trung Quốc 3 lần sử dụng vũ lực bất hợp pháp vào năm 1909, năm 1956 và năm
1974. Sau khi sử dụng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc áp dụng nhiều thủ đoạn, để hợp thức hóa “chủ quyền lịch sử” đối với khu vực này, như xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố; ồ ạt đưa quân, dân ra quần đảo để tạo lập các đơn vị hành chính “thành phố Tam Sa”; công bố văn bản pháp lý quy định hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng các vùng biển và thềm lục địa bao lấy toàn bộ quần đảo; thường xuyên ra các lệnh, quyết định hành chính, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là một ví dụ điển hình.
Thứ hai, phạm vi của Lệnh cấm đánh cá này xâm phạm các EEZ và thềm lục địa của Việt Nam và Philippines. Theo quy định của UNCLOS 1982, Việt Nam (12/11/1982) đã công bố Tuyên bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam, nên Việt Nam hoàn toàn có quyền xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của mình. Phạm vi mà Lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough, đã bao trùm lên một phần vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Không những vậy, tại phán quyết của Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (7/2016), Toà đã khẳng định việc áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá năm 2012 tại một khu vực lớn tại Biển Đông, mà không loại trừ EEZ của Philippines và không giới hạn áp dụng với các tàu mang cờ Trung Quốc, là sự vi phạm Điều 56 UNCLOS về quyền chủ quyền đối với tài nguyên sinh vật biển trong EEZ của Philippines (đoạn 716, phán quyết 2016). Việc tiếp tục đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh đánh bắt cá trong phạm vi rộng tại Biển Đông vào năm 2017, năm 2018, sau khi phán quyết Tòa Trọng tài có hiệu lực, cho thấy sự thách thức của Trung Quốc đối với quy định của pháp luật quốc tế hiện hành.
Thứ ba, phạm vi lệnh cấm đánh cá còn vi phạm quy chế của vùng chồng lấn nằm ở cửa vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc đang đàm phán phân định vùng chồng lấn này. Theo quy định của UNCLOS và theo thực tiễn quốc tế, trong khi đàm phán phân định vùng chồng lấn, các bên liên quan không được phép đơn phương tiến hành bất kỳ một hoạt động nào. Việc Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh cá ở vùng chồng lấn là trái với quy định của UNCLOS, bất chấp thông lệ quốc tế và hoàn toàn đi ngược lại cam kết chính trị của hai bên.
Thứ tư, với điều kiện địa lý của một vùng biển nửa kín, nơi các tài nguyên sinh vật có độ đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau lớn, việc tham vấn là một trong các nghĩa vụ bắt buộc để bảo tồn các loài có khả năng di cư cao và sinh sống trên vùng biển của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, Trung Quốc đã tuỳ tiện áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong khoảng thời gian không phù hợp với thực tiễn đánh bắt cá ở Biển Đông và không tiến hành tham vấn với các quốc gia hữu quan.
Thứ năm, việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm cho thấy Trung Quốc vi phạm nguyên “kiềm chế, không thực hiện các hoạt động làm phức tạp và leo thang tranh chấp” đã được quy định trong DOC.
Trước hành vi phi pháp của Trung Quốc, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lần tuyên bố Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền hợp pháp với các vùng biển Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS; nhấn mạnh Việt Nam kiên quyết phản đối và bác bỏ quyết định đơn phương này của Trung Quốc vì đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông DOC ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, không phù hợp với xu thế phát triển quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình ở khu vực.
http://biendong.net/bien-dong/30109-tau-ca-tq-tran-xuong-bien-dong-tan-pha-moi-truong-sinh-thai.html
Biển Đông: Anh, Pháp, Đức
cảnh báo về bất ổn và ủng hộ UNCLOS
Thông cáo chung của ba cường quốc được đưa ra hôm 29/8, ngay sau khi Mỹ đưa tàu vào sát các đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông.
Thông cáo chung của Anh, Pháp, Đức hôm 29/8 viết:
“Chúng tôi quan ngại về tình hình trên Biển Đông hiện nay có thể dẫn đến sự bất an và bất ổn trong khu vực.”
“Chúng tôi kêu gọi tất cả các quốc gia ven biển tại khu vực Biển Đông thực hiện các biện pháp giảm căng thẳng và góp phần duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh, ổn định và an toàn trong khu vực, bao gồm cả quyền của các quốc gia ven biển trong vùng biển chủ quyền, bao gồm quyền tự do và quyền hàng hải trong và trên Biển Đông.”
“Là các quốc gia thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), Pháp, Đức và Vương quốc Anh nhấn mạnh mối quan tâm của mình đối với việc áp dụng ở mức độ toàn cầu Công ước này. Công ước UNCLOS đặt ra các khuôn khổ pháp lý toàn diện mà mọi hoạt động được tiến hành ở các vùng biển, bao gồm Biển Đông, phải tuân thủ; điều này tạo cơ sở cho hợp tác quốc gia, khu vực và toàn cầu trong lĩnh vực hàng hải. Đức, Pháp và Anh nhắc lại việc tuân thủ này bằng Phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực trong khuôn khổ UNCLOS vào ngày 12/7/2016.”
“Pháp, Đức và Vương quốc Anh hoan nghênh các cuộc đàm phán đang diễn ra giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc nhằm đạt được Bộ quy tắc Ứng xử hiệu quả, hợp tác, tuân thủ luật pháp và phù hợp với UNCLOS ở Biển Đông và hi vọng tiến trình này sớm đạt được kết quả.”
Việt – Trung căng thẳng ở Bãi Tư Chính
Trong khi đó, việc Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa chất 8 tới thăm dò tại khu vực Bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam đã gây căng thẳng giữa hai nước trong hai tháng qua.
Kể từ đầu tháng Bảy tới nay, các tàu của Việt Nam và Trung Quốc đã liên tục trong tình trạng đối đầu tại Bãi Tư Chính.
Hôm 24/8, tàu khảo sát của Trung Quốc, với sự hộ tống của ít nhất bốn tàu khác, mở rộng hoạt động tới khu vực sát với bờ biển của Việt Nam hơn, ngay sau khi Úc và Mỹ lên tiếng tỏ ý quan ngại về các hoạt động của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Mỹ là nước đầu tiên công khai lên tiếng phê phán Trung Quốc bắt nạt nước láng giềng trên Biển Đông. Mỹ cũng lên án việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát và nhóm tàu hộ tống có vũ trang vào vùng biển ngoài khơi Việt Nam hôm 13/8, nói đây là “việc Bắc Kinh leo thang nhằm hăm dọa các bên khác có tuyên bố quyền khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông”.
Mỹ cũng cam kết sẽ “thúc đẩy an toàn năng lượng cho các đối tác và đồng minh ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương và đảm bảo việc khai thác dầu khí trong khu vực sẽ không bị gián đoạn” theo thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Hôm 23/8, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc phát biểu trong cuộc họp báo chung với Thủ tướng Scott Morrison tại Hà Nội: “Chúng tôi vô cùng quan ngại về những diễn biến phức tạp gần đây ở Biển Đông và đồng ý hợp tác trong việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không.” Đây là các bình luận công khai đầu tiên của ông Phúc về vụ việc trên Biển Đông, theo Reuters.
Việt Nam đã lên tiếng nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu khỏi Bãi Tư Chính.
Mỹ – Trung thách thức nhau ở Đá Chữ Thập và Đá Vành Khăn
Tàu khu trục Wayne E. Meyer thuộc lớp Arleigh Burke của Mỹ hôm thứ Tư 28/8 vào sát phạm vi 12 hải lý quanh Đá Chữ Thập và Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa.
Với việc để khu trục hạm Wayne E. Meyer thực thi quyền tự do đi lại trên biển, bà Reann Mommsen, phát ngôn viên Hạm đội 7 của hải quân Mỹ nói, là nhằm “thách thức các yêu sách quá quắt trên biển và bảo toàn quyền tiếp cận vào tuyến đường biển theo quy định của luật quốc tế”.
Trong một động thái đáp trả, Bộ Tư lệnh Tác chiến Miền Nam của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã gửi tàu thuyền và phi cơ ra theo dõi, giám sát hoạt động của tàu Mỹ.
Quân đội Trung Quốc hôm 29/8 nói tàu khu trục Wayne E. Meyer đã “xâm phạm vùng lãnh hải Trung Quốc” khi không được phép của chính quyền Bắc Kinh, đồng thời cảnh cáo, yêu cầu tàu Mỹ rời đi.
“Thực tế này chứng minh rằng cái gọi là ‘tự do đi lại’ của Hoa Kỳ thực sự chính là sự xác quyết quyền bá chủ trên biển, phớt lờ luật pháp quốc tế, làm tổn hại nghiêm trọng chủ quyền và các lợi ích an ninh
của Trung Quốc, và làm tổn hại nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định trong vùng Biển Nam Trung Hoa (cách Trung Quốc gọi Biển Đông),” phát ngôn viên quân đội Lý Hoa Mẫn nói.
“Chúng tôi thúc giục phía Mỹ hãy ngay lập tức chấm dứt các hành động mang tính khiêu khích như vậy, nhằm tránh để xảy ra những sự việc ngoài mong muốn.”
Vùng biển quanh Đá Chữ Thập và Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Salà nơi có tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines và Đài Loan, nhưng Trung Quốc đã cơi nới thành đảo nhân tạo và xây cất các “cơ sở vật chất có khả năng dùng cho mục tiêu quân sự”.
Trên Đá Vành Khăn, Bắc Kinh đã xây cất đường băng và bãi đáp máy bay, còn Đá Chữ Thập được xây cất tòa nhà bê tông với hệ thống antenna radar cao tần.
Đá Chữ Thập cũng là nơi mà tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc được cho là đã ghé vào để tiếp liệu sau khi tạm rút khỏi khu vực Bãi Tư Chính ở ngoài khơi Việt Nam khoảng gần một tuần hồi đầu tháng Tám.
Ngay trước khi khu trục hạm Wayne E. Meyer vào sát các đảo nhân tạo, Bắc Kinh hôm 27/8 đã từ chối việc để một chiến hạm Mỹ ghé thành phố cảng Thanh Đảo của Trung Quốc.
Trung Quốc và Hoa Kỳ đã liên tục đấu khẩu về điều mà Washington nói rằng Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông qua việc xây cất các cơ sở quân sự trên các đảo nhân tạo, các bãi đá ở đây.
Ấn Độ lên tiếng vụ tàu hải cảnh TQ
lởn vởn gần các lô dầu ở Biển Đông
New Delhi chính thức phản ứng đối với sự xâm phạm của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, nơi đang là địa điểm hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Ấn Độ và tập đoàn Rosneft của Nga.
Phát biểu tại cuộc họp báo hàng tuần của Bộ Ngoại giao Ấn Độ vào ngày 29/8, người phát ngôn Raveesh Kumar nói “Biển Đông là một phần của cộng đồng toàn cầu”, vì vậy nước này “kiên quyết ủng hộ tự do hàng hải, hàng không và thương mại hợp pháp trong vùng biển quốc tế, theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS”, theo truyền thông Ấn Độ ngày 30/8.
Phản ứng chính thức của New Delhi diễn ra sau khi Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Mỹ và châu Âu đã lên tiếng phản đối hành vi gây căng thẳng của Trung Quốc trong thời gian gần đây ở Biển Đông bằng hành động đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 và các tàu hải cảnh đi vào hoạt động trong khu vực gần Bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đây cũng là khu vực mà Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Ấn Độ và tập đoàn Rosneft của Nga đang có các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí.
Trước đó, một chuyên gia khẳng định với VOA rằng việc Trung Quốc đưa nhóm tàu Hải Dương 8 đến thăm dò ở Bãi Tư Chính diễn ra sau khi Bắc Kinh yêu cầu Hà Nội dừng các dự án dầu khí mà Việt Nam đang hợp tác với các nước để khai thác trong khu vực này. Tuy nhiên, Hà Nội đã khước từ yêu cầu của Bắc Kinh và sau đó tiếp tục gia hạn hoạt động khoan của công ty Rosneft Việt Nam B.V. (công ty con của Công ty Rosneft của Nga) tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính.
Cho đến nay, ngoài “lời cảm ơn” mà Tổng thống Putin gửi đến Giám đốc lô khai thác của công ty Rosneft Việt Nam vào ngày 18/7 (hai tuần sau khi Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 8 vào bãi Tư Chính), phía Nga chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố chính thức nào về những diễn tiến có liên quan đến hoạt động của tập đoàn dầu khí, mà phần lớn vốn thuộc sở hữu của chính phủ Nga, trên Biển Đông.
Hoạt động khoan giếng sản xuất ở mỏ Lan Đỏ của Rosneft Việt Nam bắt đầu kể từ tháng 5/2018 trong khuôn khổ chương trình phát triển Lô 06.1 trên thềm lục địa của Việt Nam. Khu vực này có ba mỏ khí ngưng tụ là mỏ Lan Tây, Lan Đỏ và Phong Lan Dại. Ước tính dự trữ khí ban đầu trong các mỏ này vào khoảng 69 tỷ mét khối.
Tại cuộc họp báo, phát ngôn viên Raveesh cho rằng các bên nên giải quyết khác biệt một cách ôn hòa, tôn trọng các quy trình pháp lý và ngoại giao và không đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ lực.
Theo truyền thông Ấn Độ, hai trong số các tàu hải cảnh của Trung Quốc bị phát hiện lảng vảng gần lô dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Ấn Độ vào ngày 13/8. Đây là lần quay lại thứ 2 của tàu hải cảnh Trung Quốc trong khu vực, sau khi bắt đầu đến hoạt động trong khu vực vào ngày 3/7 và rời đi hôm 7/8.
Trong lần trở lại này, có 6 tàu hải cảnh, 10 tàu đánh cá, 2 tàu dịch vụ cùng với máy bay ném bom H6, chiến đấu cơ và máy bay tiếp liệu đã được phát hiện trong khu vực.
Sự kiện tàu Hải Dương 8 hoạt động trong khu vực thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã đẩy căng thẳng trong quan hệ Việt-Trung lên đến đỉnh điểm, kể từ sau vụ Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014.
Đây cũng là lần đầu tiên Hà Nội liên tục lên tiếng phản đối nhiều lần và gửi công hàm chính thức tới Bắc Kinh.
0 nhận xét