Tin Biển Đông – 27/03/2019
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2019
20:34
//
Biển Đông
,
Slider
Giàn khoan dầu khí Hải Dương 982
lại hoạt động trên Biển Đông
Giới truyền thông cho biết, giàn khoan dầu khí Hải Dương 982 – HD982 (19/3) đã xuất hiện vùng biển ngoài khơi Tam Á ở phía Nam đảo Hải Nam. Đây dường như là lần đầu tiên giàn khoan này xuất hiện ở khu vực phía Tây Biển Đông.
Trước đây, Hải Dương 982 được hạ thủy tháng 5/2017 và được chuyển giao cho Công ty dịch vụ mỏ dầu Trung Quốc (COSL) trực thuộc Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) vào tháng 3/2018. Sau đó, Hải Dương 982 có hợp đồng khoan dầu khí đầu tiên với Gazprom Neft của Nga ở khu
vực biển Okhotsk. Sau chuyến tác nghiệp đầu tiên ở nước ngoài thì đến cuối năm 2018 Hải Dương 982 được kéo về cảng Huệ Châu ở Quảng Đông. Đầu năm nay thì nó được triển khai ra khu vực phía Đông Biển Đông, tức phía Đông Hải Nam, phía Nnam Hồng Kông. Và đến lúc này thì xuất hiện ở Tam Á. Theo Cục Hải sự Hải Nam (19/3) thông báo giàn khoan Hải Dương 982 sẽ neo ở khu vực này từ đây đến ngày 31/5/2019.
Còn theo thông báo về hợp đồng được ký giữa COSL với công ty Eni của Ý trước đây, thì Hải Dương 982 sẽ hoạt động ở Biển Đông vào quý 1 năm 2019. Nhưng không rõ là khu vực ở phía Đông Hải Nam hay ở khu vực Vịnh Bắc Bộ và đã hoàn thành hợp đồng với Eni hay chưa. Nếu đến Tam Á thực hiện hợp đồng với Eni thì nhiều khả năng là Hải Dương 982 sẽ khoan ở lô 50/34 ở cửa Vịnh Bắc Bộ, thuộc bể Quỳnh Đông Nam (Qiongdongnan) mà Eni có hợp đồng với CNOOC. Lô 50/34 tuy nằm ở khu vực cửa vịnh Bắc Bộ chưa được phân định giữa Việt Nam và Trung Quốc nhưng nó nằm sâu về phía Hải Nam nên hầu như Việt Nam không có tranh chấp.
Được biết, giàn khoan Hải Dương 982 được đóng ở xưởng đóng tàu Đại Liên là loại giàn khoan nửa nổi nửa chìm thế hệ thứ 6, có thể chịu được những cơn bão mạnh, phù hợp với điều kiện thời tiết khi tác nghiệp tại Biển Đông. Hải Dương-982 được trang bị hệ thống định vị động lực DP3, khả năng tác nghiệp tại mức nước sâu nhất lên đến 1.500m và độ sâu của giếng khoan thăm dò đạt 9.144m. Giàn có chiều dài 104,5 mét, chiều rộng 70,5 mét, có thể phục vụ cho 180 nhân viên. Giàn khoan này được chế tạo với thời gian phục vụ khoảng 25 năm.
CCTV từng cho biết, giàn khoan Hải Dương 982 chính là phiên bản giản hóa của giàn khoan Hải Dương-981. Nó sẽ thuận lợi hơn cho Trung Quốc trong quá trình thăm dò và khai thác dầu khí, bởi giàn khoan Hải Dương 982 được thiết kế có thể liên kết với các ụ tàu nổi, các cảng trên biển để trở thành “đảo di dộng nhân tạo trên biển”.
Bắc Kinh có ý định mở rộng đòi hỏi chủ quyền
bên ngoài đường lưỡi bò ở Biển Đông
Trang Sáng kiến Minh bạch Hàng hải (AMTI) thuộc Trung Tâm Chiến lược và Nghiên cứu quốc tế ở Mỹ hôm 21/3 có bài viết nhận định Trung Quốc có khả năng sớm tuyên bố đường cơ sở thẳng qua toàn bộ các thực thể ở Biển Đông bất chấp luật quốc tế.
Trang AMTI viết rằng “Trung Quốc không hề che giấu ý định cuối cùng sẽ tuyên bố đường cơ sở thẳng quanh phần còn lại của những thực thể tại Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Trường Sa”.
Đường cơ sở được các quốc gia ven biển áp dụng để xác định vị trí và chiều rộng của các vùng biển để từ đó xác định chủ quyền trên biển căn cứ theo Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc.
Hiện khu vực Biển Đông cùng các thực thể tại đây là vùng tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và một số nước trong khu vực bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Theo AMTI, từ năm 1996, Trung Quốc đã tuyên bố một loạt đường cơ sở thẳng qua quần đảo Hoàng Sa mà nước này chiếm được từ Việt Nam vào năm 1974. Đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc tuyên bố ở khu vực quần đảo này khiến Trung Quốc mở rộng phần lãnh hải qua việc áp dụng đường cơ sở thẳng đối với toàn bộ các thực thể thuộc quần đảo, thay vì vẽ riêng với từng thực thể như quy định của luật quốc tế. Không những thế, Trung Quốc cũng tuyên bố tất cả vùng nước phía trong của những đường cơ sở thẳng này là vùng nội thủy của Trung Quốc. Kết quả là Trung Quốc khẳng định các tàu thuyền và máy bay nước ngoài không có quyền đi qua vùng nước và vùng trời khu vực quần đảo Hoàng Sa, kể cả khi ở bên ngoài vùng 12 hải lý quanh các đảo.
Hoa Kỳ sau đó đã tuyên bố phản đối Trung Quốc. Philippines và Việt Nam cũng phản đối.
Hoa Kỳ lập luận rằng, theo Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS), các nước ven biển như Trung Quốc không được áp dụng đường cơ sở thẳng. Đường này chỉ có thể áp dụng với các quốc đảo như Philippines và Indonesia. Vào năm 2016, sau khi có phán quyết của tòa Trọng Tài quốc tế về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc về những tranh chấp trên Biển Đông, Hoa Kỳ cũng một lần nữa khẳng định lập trường của mình về đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc đưa ra.
Theo phán quyết của Tòa trọng tài Quốc tế, việc áp dụng đường cơ sở thẳng của Trung Quốc cũng không được chấp nhận. Không những thế, phán quyết của tòa còn quy định các phân khúc đường cơ sở không thể dài quá 100 miles và tỷ lệ vùng nước và đất trong đường cơ sở không thể vượt quá 9/1. Tuy nhiên đường cơ sở mà Trung Quốc vẽ ra ở Hoàng Sa dù không quá 100 miles nhưng lại có tỷ lệ là 1.891/1, theo AMTI.
Vào tháng 7/2016, Trung Quốc đã lên tiếng bác bỏ phán quyết của tòa trọng tài quốc tế và một lần nữa khẳng định chính sách của nước này từ năm 1958 là áp dụng đường cơ sở thẳng đối với tất cả các khu vực Dongsha Qundao (hay còn gọi là Pratas), Xisha Qundao (Hoàng Sa), Zhongsha Qundao (bãi cạn Scarborough và bãi Macclesfield), Nansha Qundao (Trường Sa), cùng tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.
AMTI dự đoán có thể có 4 khả năng Trung Quốc sẽ đưa ra đường cơ sở thẳng đối với phần còn lại của Biên Đông như sau:
Khả năng 1: Trung Quốc sẽ phớt lờ tất cả các quy định trong UNCLOS và bao gồm tất cả các thực thể ở Quần đảo Trường Sa vào đường cơ sở của mình, tức là bao gồm cả Trường Sa, bãi Luconia và James Shoal của Malaysia và Vanguard Bank, cùng những thực thể nửa chìm nửa nổi thuộc thềm lục địa Việt Nam.
Khả năng 2: Trung Quốc sẽ bao gồm tất cả quần đảo Trường Sa vào các phân khúc của đường cơ sở với chiều dài lớn hơn 100 miles.
Khả năng 3: Trung Quốc sẽ vẽ các đường cơ sở quanh các thực thể nổi và bãi cạn lúc chim lúc nổi.
Khả năng 4: Trung Quốc sẽ bao gồm chỉ những nhóm thực thể nổi trong các đường cơ sở.
Theo AMTI, động cơ để Trung Quốc tueyen bố đường cơ sở thẳng ở quần đảo Trường Sa là để gia tăng đòi hỏi chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế, và thềm lục địa đối với các thực thể, dù phán quyết của Tòa Trọng tại quốc tế trước đó xác định các thực thể này khong phải là các đảo để có thể có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Nói tóm lại, dù với khả năng nào thì với đường cơ sở thẳng, đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông cũng sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này đã vẽ ra trên biển trước đó.
Một số tuyên bố đáng chú ý của Malaysia
về vấn đề Biển Đông gần đây
Kể từ khi lên nắm quyền, Chính phủ của Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã đưa ra nhiều tuyên bố quan trọng, thể hiện quan điểm, lập trường của Malaysia trong vấn đề Biển Đông, trong đó nổi lên một số khía cạnh:
Malaysia kiên quyết bảo vệ “chủ quyền” ở Biển Đông
Thiếu tướng K. “Bob” Thanabalasingam, chỉ huy người bản địa đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Malaysia cho rằng các yêu sách chủ quyền của Malaysia ở Biển Đông không thể bác bỏ, ngoại trừ ở những khu vực các nước láng giềng có tuyên bố chồng lấn. Ông Thanabalasingam khẳng định các yêu sách của Malaysia được xác định theo UNCLOS liên quan đến khu đặc quyền kinh tế (EEZ), nhấn mạnh yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là phi pháp vì không có quy định nào về quyền lịch sử. Theo ông Thanabalasingam, sự nghiêm túc của Malaysia trong vấn đề Trường Sa được ông Mahathir Mohamad đưa ra trong nhiệm kỳ thủ tướng đầu tiên của mình.
Trước đó, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (20/6) cho rằng Malaysia cần tiếp tục kiểm soát các cấu trúc mà nước này có yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông nhưng sẽ không chiếm thêm các cấu trúc nào khác. Cụ thể, ông nói: “Trung Quốc đã yêu sách Biển Đông là của họ, song những đảo đó (khoảng 4 đến 5 đảo) từ lâu đã được coi là thuộc chủ quyền của Malaysia, do đó, Malaysia cần phải giữ lại chúng”. Ngoài ra, ông Mahathir cũng cho biết thêm: “có một số đá mà Malaysia đã cải tạo thành đảo, Malaysia hy vọng có thể duy trì hiện diện trên các đảo đó nhằm góp phần bảo vệ an toàn trước những nguy cơ trên biển, trong đó có cướp biển”.
Malaysia ủng hộ tự do hàng hải ở Biển Đông
Phát biểu tại sự kiện Đầu tư Malaysia 2019, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (19/3) tiếp tục kêu gọi duy trì quan điểm Biển Đông mở cửa cho tất cả các tàu, thậm chí cả tàu chiến. Tuy nhiên, ông Mahathir Mohamad cũng nhấn mạnh rằng tự do như vậy không nên bị lạm dụng và không có tàu chiến nào có quyền lưu lại vĩnh viễn ở vùng biển tranh chấp vì điều này sẽ gây kích động cho các quốc gia xung quanh. Theo ông Mahathir Mohamad, các hành động kích động không phải là những gì mà chúng ta muốn thấy ở Biển Đông.
Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Mohamad Sabu (21/10/2018) cho biết Malaysia sẽ tiếp tục kêu gọi để Biển Đông là một khu vực tự do, không có cạnh tranh hay gia tăng quân sự. Quan điểm này được Malaysia duy trì từ thời Thủ tướng Tun Abdul Razak Hussein. Theo Bộ trưởng Mohamad Sabu, tại các diễn đàn mở, các cường quốc luôn thể hiện họ tôn trọng luật biển quốc tế, nhưng sự thật thì ngược lại, ví dụ như vụ suýt đụng độ gần đây liên quan đến hai tàu chiến ở Trường Sa. Ông cho biết Malaysia muốn “các siêu cường tôn trọng Biển Đông là một khu vực trung lập và an toàn”. Trong khi đó, Bộ trưởng Kinh tế Malaysia Datuk Seri Azmin Ali (11/10/2018) khẳng định Malaysia duy trì lập trường rằng tự do hàng hải ở Biển Đông phải không bị cản trở, “khu vực này phải là khu vực hòa bình, tự do, trung lập và không được phép quân sự hóa”. Bộ trưởng Azmin nhấn mạnh “Khu vực Đông Nam Á đang coi Trung Quốc là người khổng lồ kinh tế mới với sự ngưỡng mộ chân thành, nhưng cũng có một số lo ngại vì sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Cam kết của Trung Quốc đối với sự phát triển hòa bình là cực kỳ quan trọng đối với sự thịnh vượng của khu vực”.
Trong chuyến thăm Nhật Bản, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (20/6/2018) đã tuyên bố rằng Nhật Bản và Malaysia nhất trí duy trì quyền tự do hàng hải ở eo biển Malacca và Biển Đông cho tất cả các quốc gia. Thủ tướng Shinzo Abe khẳng định khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông, cần phải là một khu vực tự do và cởi mở dựa trên thượng tôn phát luật và được đảm bảo là tuyến đường chung vì hoà bình và thịnh vượng của khu vực. Ông Abe nhấn mạnh: “Nhật Bản sẵn sàng hợp tác với tất cả những quốc gia nào ủng hộ khái niệm này với Malaysia. Tôi khẳng định quyết tâm thúc đẩy hơn nữa hợp tác vì hoà bình và ổn định khu vực, trong đó có lĩnh vực an ninh biển”. Về phần mình, Thủ tướng Mahathir cũng khẳng định rằng: “Malaysia nhất trí về sự cần thiết của việc duy trì tự do hàng hải khu vực eo biển Malacca và Biển Đông cho tất cả các quốc gia”.
Trước đó, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (5/6/2018) cho rằng sự hiện diện các tàu chiến ở Biển Đông và eo biển Malacca đang phản ánh “một tín hiệu sai lầm” không có lợi cho hoà bình và ổn định ở khu vực. Ông cho rằng trong khi Malaysia chưa thể triển khai “một khu vực không tàu chiến” ở hai khu vực, các tàu quân sự không nên xuất hiện ở gần hai khu vực này vì có thể sẽ tạo ra tiền lệ không tốt giữa các nước. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Jatswan Singh thuộc Khoa Nghiên cứu quốc tế và Chiến lược, Đại học Malaya, Malaysia cho biết Malaysia đã đúng khi phản đối sự hiện diện của tàu nước ngoài gần các vùng biển của mình vì Malaysia và ASEAN luôn duy trì lập trường trung lập. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều các hoạt động của quân đội Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến tự do hàng hải trong tương lai. Ông Jatswan khẳng định Thủ tướng Mahathir đã sáng suốt khi bày tỏ lo ngại này của Malaysia và bổ sung thêm rằng khi các tàu chiến xuất hiện gần lãnh hải của Malaysia, điều đó sẽ biến Đông Nam Á thành đấu trường cạnh tranh giữa các nước lớn.
Malaysia sẽ theo đường lối trung lập
Trong chuyến thăm Bộ Quốc phòng, Thủ tướng Mahathir (21/2) cho rằng vị trí chiến lược của Malaysia đã khiến quốc gia này phải đối mặt với vô số đe dọa từ các siêu cường – những siêu cường có thể cuốn Malaysia vào các cuộc xung đột của các nước lớn; nhấn mạnh đây là nơi chúng ta cần thực hiện chính sách ngoại giao phù hợp, không được thỏa hiệp chủ quyền của Malaysia; khẳng định Malaysia không những thực hiện chính sách không liên minh, không chỉ với các siêu cường, mà còn phải thân thiện với các quốc gia lớn và nhỏ khác vì lợi ích chung.
Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Mohamad Saby (7/2018) bày tỏ lo ngại về sự hiện diện của Mỹ và Trung Quốc trên Biển Đông. Ông cho biết Malaysia sẽ tăng cường đối thoại với Trung Quốc và Mỹ để tránh việc khu vực bị trở thành “chiến trường”. Khi được hỏi về sự hiện diện của các tàu hạt nhân dọc trên eo biển Malacca, Mohamad cho rằng các tàu hải quân như vậy được phép đi qua song Malaysia sẽ không cho phép nếu các nước đó muốn tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung hoặc neo tàu ở khu vực vì nó có thể gây ra xung đột cho khu vực. Ông cũng lưu ý rằng an toàn dọc khu vực eo biển là vấn đề rất quan trọng vì đây là tuyến đường nhộn nhịp nhất trên thế giới với khoảng 100.000 tàu đi qua mỗi năm. Tại cuộc gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis sau Hội nghị Shangri-la tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Mohamad Sabu (4/6) cũng khẳng định nước này duy trì lập trường trung lập trong vấn đề Biển Đông, theo đuổi biện pháp hoà bình và ngăn chặn xung đột vũ
trang ở khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, ông Sabu khẳng định Biển Đông và eo biển Malacca gắn liền với thương mại khu vực và toàn cầu. Bình luận về phát biểu của ông Mattis rằng cần có lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc, ông Mohamad Sabu cho rằng vấn đề Biển Đông cần được giải quyết theo con đường đàm phán. Tại cuộc gặp này, Bộ trưởng Mattis cũng đã đề xuất hợp tác với Malaysia trong huấn luyện quân sự.
Cùng quan điểm trên, Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia Saifuddin Abdullah (24/7/2018) tuyên bố trong bối cảnh sự bành trướng hung hăng của Trung Quốc, Chính phủ mới của Malaysia sẽ đưa ra lập trường cứng rắn hơn trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ đã kéo dài hàng thập kỷ ở Biển Đông. Ông Saifuddin cho biết phát biểu gần đây của Thủ tướng Mahathir về việc các tàu chiến nên được rút khỏi Biển Đông chính là dấu hiệu cho thấy Malaysia muốn trở nên cứng rắn, nghiêm túc hơn.
Quan tâm và thúc đẩy Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
Giám đốc Viện Biển Malaysia (MIMA) Datuk Chin Yoon Chin (5/3), cho rằng ASEAN đóng một vai trò thiết yếu trong duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và một trong những sáng kiến quan trọng của ASEAN là Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Ông Chin khẳng định, DOC nhấn mạnh sự cần thiết giải quyết các vấn đề về chủ quyền ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, DOC nên giải quyết các vấn đề cấp bách hơn, ví dụ như việc sử dụng vũ lực và các hoạt động lấn biển, đồng thời xây dựng lòng tin. Ông Chin cho rằng, “các nỗ lực và sáng kiến nhằm tăng cường xây dựng lòng tin giữa các quốc gia tranh chấp cần phải được xem xét nghiêm túc. Các sáng kiến này sẽ thúc đẩy hiểu biết và hy vọng tổ chức được các cuộc đàm phán theo hướng tăng cường tiến trình xây dựng lòng tin”.
Trong khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia Saifuddin Abdullah (25/7/2018) cho biết Malaysia hy vọng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) phải thật sắc bén để giải quyết các tranh chấp ở khu vực này. Nếu không, Malaysia sẽ cân nhắc việc kiện Trung Quốc ra Tòa liên quan đến Đá Hoa Lau (Malaysia gọi là Pulau Layang Layang). Ông Saifuddin cho rằng có nhiều bên tranh chấp ở Biển Đông, trong đó Trung Quốc là kẻ muốn đóng vai trò lớn hơn về mặt địa chính trị, “hiện không có kế hoạch nào về việc kiện Trung Quốc ra tòa, nhưng chúng tôi đang củng cố các biện pháp để đối phó với hành vi của Bắc Kinh, do vậy, COC cần phải được đẩy nhanh”. Tuy nhiên, ông Saifuddin cũng bảo đảm với Quốc hội rằng Malaysia sẽ không đưa hạm đội hải quân ra Biển Đông để đối phó với Trung Quốc nếu không có lý do rõ ràng.
Malaysia yêu cầu Mỹ và Trung Quốc tôn trọng lập trường của nước này nhằm đảm bảo Biển Đông là vùng biển tự do và an toàn
Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Mohamad Sabu (28/6/2018) cho rằng các siêu cường thế giới như Mỹ và Trung Quốc cần tôn trọng lập trường của Malaysia trong việc đảm bảo Biển Đông là vùng biển tự do và an toàn cho tất cả các quốc gia ở khu vực. Ông Sabu cho biết Biển Đông có vai trò không thể tách rời đối với sự ổn định và kinh tế của khu vực Đông Nam Á, và Malaysia không muốn sự hiện diện của các tàu chiến của Mỹ và Trung Quốc trở thành “nguy cơ” đối với khu vực, khẳng định lập trường của Malaysia đã được sự ủng hộ của các nước Đông Nam Á khác có chung đường biên giới trên Biển Đông và cùng chung mong muốn duy trì hoà bình tại các vùng biển quốc tế và Malaysia không mong muốn bị cuốn vào cuộc xung đột vũ trang với các quốc gia khác. Ông Sabu nói thêm, “lập trường của Chính phủ Malaysia về vấn đề an ninh ở Biển Đông đã được khẳng định tại Đối thoại Shangri-la lần thứ 17 tại Singapore”, cho biết “bên cạnh Biển Đông, Chính phủ Malaysia cũng nghiêm túc đánh giá vai trò của an ninh khu vực eo biển Malacca và hy vọng có thể triển khai thêm tàu tuần tra tới bảo vệ các vùng biển này khỏi mọi nguy cơ đe doạ, trong đó có cướp biển”. Bên cạnh đó, ông Sabu cho hay Bộ Quốc phòng Malaysia đang lên kế hoạch đẩy mạnh mua sắm khí tàu quân sự, bao gồm các máy bay trinh sát và bảo vệ an ninh, bằng ngân sách quốc gia vào năm tới.
Sau bồi đắp đảo,
Bắc Kinh củng cố vị trí trên Biển Đông
Bắc Kinh đang tiến vào giai đoạn kế tiếp trong kế hoạch Biển Đông của họ với việc củng cố và quân sự hóa những thực thể mà họ đã chiếm được trên Biển Đông sau khi đã hoàn thành công việc bồi đắp đảo nhân tạo, hai nhà nghiên cứu ở Canada và Đức cho biết.
Trong bài phân tích mới đây đăng trên tạp chí The Diplomat có tiêu đề ‘Giai đoạn quân sự hóa kế tiếp của Trung Quốc trên Biển Đông’, Tiến sỹ Scott N. Romaniuk, hiện đang nghiên cứu sau tiến sỹ về vai trò an ninh và quân sự Trung Quốc tại Viện Trung Quốc, Đại học Alberta, Canada, và nghiên cứu sinh tiến sỹ Tobias Burgers tại Viện Otto-Suhr thuộc Đại học Tự do Berlin, cho rằng việc Trung Quốc bành trướng một cách đáng kinh ngạc tại vùng biển rộng 1,35 triệu dặm vuông thuộc Biển Đông và ngay sau đó tiến hành quân sự hóa khu vực trong vài năm qua đã tạo dựng một mội trường an ninh phức tạp.
Mặc dù có lập luận cho rằng căng thẳng trong khu vực sẽ giảm bớt do Trung Quốc đã ngừng các hành động phiêu lưu chiếm thêm lãnh thổ về phía nam, môi trường an ninh phức tạp của khu vực có thể sẽ bước vào giai đoạn căng thẳng dâng cao và phức tạp mới trong năm 2019, bài viết nói. Giai đoạn kế tiếp này sẽ diễn ra do Trung Quốc quyết tâm củng cố những vị trí mà họ có được trên Biển Đông thông qua sức mạnh quân sự và sức mạnh chính trị song song với mối đe dọa nghiêm trọng từ việc tuần tra quân sự và bước nhảy vọt trong việc triển khai máy bay do thám, chiến hạm có tên lửa được dẫn đường và rất nhiều khí tài quân sự, hai tác giả phân tích.
“Cho dù Bắc Kinh đang có sự yên ắng tạm thời – không chiếm thêm các thực thể trên Biển Đông – cách hành xử của họ ở vùng biển này chính là hiện thân của mục tiêu đạt được bá quyền trong khu vực. Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn chưa đạt được mức độ kiểm soát đối với tuyến hải lộ quan trọng về mặt chiến lược này. Ở một vùng biển mà năm bên tranh chấp còn lại – Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia, và Đài Loan – đều có tuyên bố chủ quyền chồng lấn, lập trường của Trung Quốc vẫn bị áp lực và các lãnh thổ mà họ kiểm soát liên tục bị đe dọa,” bài phân tích nêu rõ.
Hai nhà nghiên cứu cho rằng sự lên tiếng mạnh mẽ của Trung Quốc đối với điều mà họ cho là các hành động đột kích mang tính khiêu khích của Mỹ là một chỉ dấu mạnh mẽ cho thấy những thực thể Bắc Kinh kiểm soát trên Biển Đông và lợi ích của họ trong khu vực vẫn gặp đe dọa. Còn mối đe dọa từ bên ngoài thì Bắc Kinh sẽ còn tiếp tục lấn chiếm và xây dựng ở vùng biển này, tác giả nói.
Chiến dịch xây dựng đảo ban đầu của Trung Quốc giờ đây đã diễn ra gần 10 năm. Giai đoạn kế tiếp của việc bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông là củng cố và tăng cường khả năng quân sự ở những lãnh thổ họ có được – trú đóng nhiều hòn đảo nhỏ từng được xem là không thể ở được, bao gồm bãi cạn Scarborough chiến lược vốn nằm cách đảo chính Luzon của Philippines chỉ có 140 hải lý. Dù vậy, nỗ lực của Trung Quốc ở Biển Đông vẫn không thể đem lại thay đổi lớn trong hiện trạng quan hệ giữa các cường quốc.
Trong vòng một vài năm qua, Bắc Kinh đã mở rộng những bãi san hô và bãi đá ngầm hiện có lên đến hàng ngàn mẫu, nhưng sự hiện diện quân sự và sự sẵn sàng chiến đấu của họ vẫn chưa tới mức đủ để giành quyền kiểm soát đối với toàn bộ Biển Đông. “Quá trình này nhiều khả năng sẽ diễn ra lâu hơn mọi người tưởng. Việc chiếm giữ và xây dựng đảo không hề làm giảm đi các tuyên bố chủ quyền hiện tại của các bên tranh chấp. Những tuyên bố chủ quyền này – vốn được các đối tác và đồng minh ở xa hậu thuẫn – cũng không có khả năng biến mất trong tương lai,” bài phân tích lập luận.
Theo hai nhà nghiên cứu, sự kết hợp của ba nhân tố giúp gia tăng nhanh chóng khả năng sẽ có thêm hành động quân sự hóa trên Biển Đông. Đó là: việc Trung Quốc bành trướng trong quá khứ và tiếp tục củng cố vị trí bất chấp tuyên bố chủ quyền liên tục của các nước khác; việc Washington tuyên bố rằng tự do hàng hải vốn là nguyên tắc của luật pháp quốc tế cần phải được duy trì; và việc Bắc Kinh không giữ lời hứa trước đây là sẽ không xây dựng thêm nữa trên Biển Đông.
Các chiến dịch cứu hộ dân sự lâu nay vẫn là lời biện hộ chính cho việc Bắc Kinh tiếp tục xây dựng các cơ sở quân sự và triển khai các hệ thống vũ khí, bao gồm máy bay chiến đấu tối tân, tên lửa đất đối không, tên lửa chống hạm và công nghệ phá sóng bất chấp đảm bảo của Chủ tịch Tập Cận Bình rằng những thực thể họ chiếm giữ trên Biển Đông sẽ không được quân sự hóa. Bắc Kinh đã từng tỏ dấu hiệu rằng tương lai của các sứ mạng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc có dính đến Giải phóng quân Trung Quốc sẽ khiến họ cần xây thêm căn cứ quân sự. Những bước đi này là chìa khóa để tăng cường năng lực chống tiếp cận của Trung Quốc.
Hai nhà nghiên cứu cho rằng do Trung Quốc không có khả năng theo kịp tất cả các khía cạnh trong sức mạnh quân sự của Mỹ – ít nhất là về mặt chất lượng – trong ngắn hạn, sự hiện diện quân sự bên ngoài biên giới Trung Quốc là một nấc thang hợp lý và cần thiết nếu Trung Quốc hy vọng thể hiện quyền lực của họ lên một mức cao hơn. Đầu tư quân sự của Trung Quốc tiếp tục tăng và họ chỉ có một mặt trận để tập trung vào – đó là Biển Đông. Những vụ việc như giám đốc tài chính của tập đoàn Huawei, bà Mạnh Vãn Châu, bị bắt giữ và tranh chấp thương mại dai dẳng với Mỹ đã khiến mọi người tập trung sự chú ý giúp cho Bắc Kinh có vỏ bọc hữu dụng để che đậy những hoạt động của họ trên Biển Đông. Do đó, lợi ích của Trung Quốc trên Biển Đông đã trở nên tương đối ít được nhắc đến trên truyền thông.
“Những vấn đề gây xao lãng cũng cho Trung Quốc thời gian quý giá để thiết lập sự hiện diện quân sự mạnh mẽ hơn ở Biển Đông trên những thực thể mà họ kiểm soát hơn là mở rộng và theo đuổi các công trình bồi đắp đảo nữa. Ngoài ra, Bắc Kinh cũng viện tới những phương cách khác để khẳng định chủ quyền với việc Brunei đang ngày càng dựa vào Trung Quốc về kinh tế thông qua các thỏa thuận thương mại và tài chính. Nhờ đó mà Bắc Kinh đã có được một đồng minh mà họ rất cần trên Biển Đông vốn hoặc sẽ là giữ im lặng hoặc lay chuyển theo hướng phù hợp với các lợi ích chiến lược của Bắc Kinh,” bài phân tích viết.
Về phía Philippines, nước này đã tìm cách lấy lòng Trung Quốc sau khi bị hấp dẫn với những hứa hẹn của ý tưởng ‘Vành đai-Con đường’. Chiến lược phát triển hoành tráng này vừa là công cụ chính trị vừa là ý tưởng kinh tế mà Bắc Kinh có thể dựa vào để tăng cường ảnh hưởng chính trị đối với chính sách của các nước quanh Biển Đông.
“Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một nước tương đối ngoan cố đối với Bắc Kinh và vẫn là thành trì chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông với một chuỗi những hành động thách thức Trung Quốc. Nỗ lực của Việt Nam trong việc lên án những hành động phiêu lưu của Trung Quốc trên Biển Đông cho thấy giới hạn của chính sách gây áp lực hữu hảo của Bắc Kinh lên các nước để họ lặng lẽ từ bỏ tuyên bố chủ quyền các khu vực tranh chấp.”
Bắc Kinh đã chứng tỏ có những con đường khác để tiến trên Biển Đông và mở rộng quyền kiểm soát của họ trên thực tế. Kéo dài các cuộc đàm phán và mua chuộc các nước là hai chiến thuật khả dĩ. Moscow cũng từng dùng chiến thuật tương tự để siết chặt sự kiểm soát của họ đối Crimea bốn năm sau khi họ sáp nhập vùng lãnh thổ này từ tay Ukraine, tác giả bài phân tích nhận xét.
0 nhận xét