Tin Biển Đông – 16/01/2019
Thứ Tư, 16 tháng 1, 2019
12:34
//
Biển Đông
,
Slider
Hoa Kỳ và Anh tập trận chung ở Biển Đông
Hoa Kỳ và Anh vừa tiến hành tập trận chung kéo dài 6 ngày ở Biển Đông, một hành động được cho là có khả năng sẽ làm cho Trung Quốc tức giận.
Trong thông báo được công bố hôm thứ Tư, ngày 16/1, quân đội Mỹ cho biết tàu khu trục có tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Mỹ và tàu HMS Argyll của Hải quân Anh đã phối hợp hoạt động tại Biển Đông từ ngày 11/1 đến 16/1.
Theo thông báo, hai tàu này đã diễn tập giao tiếp trên biển, chiến thuật phân chia và trao đổi nhân sự với mục đích là để phát triển quan hệ hải quân hai nước. Thông báo cũng cho biết hoạt động triển khai tàu của Hải quân Anh là để hỗ trợ an ninh và ổn định trong khu vực.
Trước đó, trong một phỏng vấn dành cho Sunday Telegraph, Bộ trưởng Quốc phòng Anh cho biết Anh đang cân nhắc khả năng lập một căn cứ quân sự ở khu vực Châu Á.
Vào ngày 7/1, khu trục hạm USS McCampbell đã đi vào khu vực 12 hải lý của ba đảo Cây, Linh Côn và Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Người phát ngôn của Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ cho biết đây là hoạt động tuần tra tự do hàng hải trên Biển Đông mà Mỹ vẫn làm và sẽ tiếp tục thực hiện trong tương lai.
Sau chuyến đi này của tàu USS McCampbell, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Lục Khảng, nói với báo chí rằng Trung Quốc thúc giục Hoa Kỳ ngưng ngay lập tức các hành động khiêu khích.
Hôm 8/1, truyền hình Trung Quốc cho biết Bắc Kinh đã cho triển khai tên lửa đạn đạo DF-26 đến vùng sa mạc Gobi và cao nguyên Tây Tạng, một hành động được cho là nhằm đáp trả những hoạt động gần đây của Mỹ ở Biển Đông. Tên lửa DF-26 được cho là có khả năng nhắm bắn đến những tàu lớn và trung bình trên biển.
Quanh việc USS McConell tới Hoàng Sa
và phản ứng của VN
Mỹ HằngBBC, Bangkok
Bình luận của chuyên gia Biển Đông quanh các ý kiến quốc tế về phản ứng của Việt Nam khi USS McCampbell neo đậu gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp, và tương lai của Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
Việc Việt Nam lên tiếng về chủ quyền tại Hoàng Sa sau khi Mỹ đưa tàu khu trục USS McCampbell áp sát khu vực này hôm 7/1 đã thu hút nhiều bình luận quốc tế.
Theo đó, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng hôm 9/1 một lần nữa khẳng định Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trả lời BBC hôm 15/1, chuyên gia Biển Đông Hoàng Việt cho rằng Việt Nam hiện trở thành nước duy nhất cứng rắn trong vấn đề Biển Đông, nhưng không phải chỉ chờ tới khi USS McCampbell tới Hoàng Sa như nhận định của một số nhà quan sát quốc tế.
Việt Nam ‘tranh thủ cơ hội’ để ủng hộ Mỹ?
Tờ SCMP viết rằng Việt Nam thường cố tỏ ra cân bằng trong quan hệ với cả Bắc Kinh và Washington, nhưng cơ hội mà USS McCampbell mang tới lại quá tốt để bỏ lỡ.
Hà Nội đã viện đến hoạt động tự do hàng hải mới nhất của Hoa Kỳ trên Biển Đông để không chỉ thể hiện sự ủng hộ đối với đồng minh phương Tây mà còn khẳng định các yêu sách về lãnh thổ của mình ở khu vực đang tranh chấp này, bài báo trên SCMP cho hay.
Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cao cấp của Rand Corporation, nói rằng trong khi tuyên bố này khá điển hình cho xu hướng ủng hộ Mỹ của Việt Nam trong các vấn đề như tự do hàng hải, thì việc nó được đưa ra thời điểm này rất đáng ngạc nhiên – khi mà mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang trở nên căng thẳng hơn.
Ông Carl Thayer, giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales Việt Nam, thì bình luận trên SCMP rằng trong khi Hà Nội sử dụng sự cố USS McCampbell để lại lên tiếng về các yêu sách của mình ở Biển Đông, họ không muốn đối kháng hay chọc giận Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của mình.
‘Việt Nam ý thức vai trò của Mỹ trong chanh trấp Biển Đông’
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nói với BBC rằng nếu chỉ dựa vào phát biểu của bà Lê Thị Thu Hằng thì khó có thể nhìn thấy Việt Nam có ủng hộ Mỹ trong việc mang tàu khu trục đến khu vực tranh chấp trên Biển Đông hay không.
Hôm 7/1, tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Hải quân Mỹ áp sát 3 đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Phát ngôn viên Hạm đội Thái Bình Dương Rachel McMarr nói USS McCampbell đã thực hiện hoạt động “tự do hàng hải” “để thách thức các tuyên bố chủ quyền hàng hải quá mức”.
Lên tiếng về việc này, hôm 9/1, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, nếu dựa trên tình hình thực tế, Việt Nam luôn ý thức mình “sẽ ở vào thế vô cùng bất lợi nếu không có các cường quốc như Hoa Kỳ tham dự vào tranh chấp trên Biển Đông”.
“Như Hoa Kỳ tuyên bố, nước này không can thiệp vào chủ quyền của quốc gia nào mà chỉ quan tâm tới tự do hàng hải và hàng không trên khu vực Biển Đông. Việt Nam dường như ủng hộ quan điểm đó từ Hoa Kỳ chứ không ủng hộ hoạt động của tàu tuần tra đó,” ông Hoàng Việt nói.
“Nếu nhận định rằng Việt Nam nhân cơ hội McCampbell để tái khẳng định chủ quyền trên Biển Đông thì tôi cho rằng có thể họ đã không theo sát các phát biểu của Việt Nam. Cá nhân tôi cho rằng trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông, đặc biệt khi có tầu tuần tra tới khu vực này, Việt Nam luôn lên tiếng khẳng định chủ quyền của mình.”
“Việt Nam cũng luôn nhắc đến bằng chứng pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này đã được lặp đi lặp lại nhiều lần và không có gì đáng ngạc nhiên. Việt Nam không có đủ tiềm lực để so sánh ngang bằng với Trung Quốc nên luôn phải vận dụng tới luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Trong đó quy định tất cả quyền tài phán và quyền chủ quyền của mỗi quốc gia trên biển như thế nào.”
Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng cho rằng việc Việt Nam đưa ra tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông vào thời điểm quan hệ Mỹ-Trung đang căng thẳng không có ý nghĩa gì đặc biệt như một số nhà quan sát quốc tế nhận định.
“Tôi cho rằng việc đưa ra tuyên bố này chỉ để đáp lại việc Mỹ đưa tàu tuần tra vào khu vực Biển Đông và căng thẳng trong phát ngôn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc liên quan đến việc này. Lúc đó Việt Nam phải có tiếng nói.”
“Ông Carl Thayer nói rằng Việt Nam luôn nằm trong thế phải cân bằng quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tôi cho rằng trong quan hệ với hai nước này, Việt Nam luôn phải đặt mối quan hệ với Trung Quốc lên hàng thứ nhất, bởi vì Việt Nam quan niệm muốn có phát triển thì phải có hòa bình. Muốn có hòa bình thì phải có quan hệ tốt đẹp với hàng xóm khổng lồ Trung Quốc.”
‘Việt Nam luôn cứng rắn đối với vấn đề Biển Đông’
Về nhận định Việt Nam lần đầu tiên tỏ ra cứng rắn hơn trong vấn đề Biển Đông, thể hiện qua các yêu sách đối với Trung Quốc trong dự thảo COC, ông Hoàng Việt cho rằng các nhà phân tích nước ngoài có thể “chưa hiểu hết nội tình của Việt Nam, cũng như không theo sát được tiến trình của Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông”.
“Với tư cách là một học giả Việt Nam theo sát các quá trình ra chính sách của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, tôi cho rằng đây không phải là ‘lần đầu cứng rắn’ mà có thể chỉ là lần đầu tiên thế giới được biết thôi. Đây là quá trình của cả 10 nước ASEAN cùng Trung Quốc tham gia vào bản dự thảo COC. Theo quan sát của tôi từ năm 2009 tới nay Việt Nam vẫn luôn cứng rắn như vậy trong vấn đề Biển Đông. Việt Nam luôn hòa hoãn với Trung Quốc nhưng không nhượng bộ trước các lợi ích của mình trên Biển Đông và lợi ích này phải tuân thủ luật quốc tế.”
“Như chúng ta biết, trước đây chỉ có hai quốc gia có quyền lợi trực tiếp trên Biển Đông đưa ra tiếng nói mạnh mẽ nhất tđó là Việt Nam và Philippines. Tuy nhiên đến thời Tổng thống Rodrigo Duterte thì gió đã đổi chiều, khi nước này nhượng bộ nhiều trước Trung Quóc. Do đó hiện chỉ còn Việt Nam còn thể hiện quan điểm cứng rắn.”
‘Tương lai xa vời cho COC, nhưng ‘còn hi vọng’
Bàn về tương lai của COC trong bối cảnh Việt Nam hiện là nước duy nhất trong khối ASEAN lên tiếng mạnh mẽ về vấn đề Biển Đông, ông Hoàng Việt nói ‘xa vời nhưng còn hi vọng’.
“Theo phát biểu của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường thì hi vọng trong ba năm tới có thể ra được bản COC, nhưng theo tôi điều này rất xa vời. Chúng ta không thể trông chờ trong vòng 5 – 10 năm tới có thể có được một cái COC. Do phía ASEAN hiện có sự khác biệt nhất định. Chúng ta trở lại trước, khoảng năm 2010, các học giả cho rằng 10 nước ASEAN phải chấp thuận bản COC sau đó mời Trung Quốc tham gia thì sẽ dễ hơn. Lúc đó có một bản dự thảo COC do Indonesia khởi thảo, đã được 10 nước ASEAN chấp thuận. Nhưng khi đưa ra Trung Quốc thì nước này không chịu. Do đó toàn bộ quá trình đàm phán COC được làm lại từ đầu. Vì vậy, mặc dù có sự phản đối từ một số quốc gia ASEAN có quan điểm khác biệt trong vấn đề COC, nhưng cản trở lớn nhất chính là từ phía Trung Quốc.”
“Với những yêu cầu cứng rắn của Việt Nam trong bản dự thảo COC thì tôi cho rằng Trung Quốc càng khó có thể chấp thuận trong thời gian này. Theo đó, Việt Nam đòi hỏi COC phải có ràng buộc mang tính pháp lý. Vì nếu không, nó chẳng khác gì Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) trước đây và nó không thể ngăn chặn được những xung đột tiềm tàng trong khu vực này.”
“Việt Nam cũng yêu cầu COC phải cấm các hoạt động mà Trung Quốc hiện đang tiến hành, như bồi lấp đảo nhân tạo, quân sự hóa, và nhận diện khu vực phòng không trên Biển Đông. Những yêu cầu này đụng tới quyền lợi, tham vọng của Trung Quốc. Vì vậy họ không dễ chấp nhận. Có lẽ phải đợi đến khi nào Trung Quốc bị cộng đồng quốc tế buộc vào cái thế phải chấp nhận thì họ mới chấp nhận còn hiện tại thì không, khi thế và lực của họ còn rất mạnh.”
“Chúng ta vẫn cứ nên lạc quan. Hãy nhìn lại 2017 là năm rất bi quan khi Hoa Kỳ có những vấn đề nội bộ, khi Tổng thống Trump lên nằm quyền và rút khỏi trật tự đa phương và để ngỏ cơ hội cho Trung Quốc trỗi dậy, vấn đề Biển Đông lúc đó còn u tối hơn bây giờ. Sau đó, cuộc chiến thương mại Mỹ Trung cho thấy Trung Quốc đã có những suy giảm phần nào, và điều đó tác động phần nào đến thái độ của Trung Quốc. Có lẽ nhờ vậy, Trung Quốc dịu giọng hơn trong vấn đề Biển Đông và đã xúc tiến việc ngồi lại với ASEAN để tìm kiếm các giải pháp cho COC.”
“Nhưng tôi nghĩ rằng cũng sẽ đến lúc Trung Quốc phải chấp nhận COC. Dù vì lý do kinh tế mà nhiều quốc gia phải ngả theo Trung Quốc, thế giới giờ đã cảnh giác hơn rất nhiều với cường quốc này. Thái độ của họ cũng thay đổi nhiều. Cứ theo đà thế này thì sẽ đến lúc cộng đồng quốc tế gây sức ép để Trung Quốc phải tuân thủ luật chơi. Chỉ có điều nó sẽ không đến dễ dàng và nhanh chóng.”
“Người ta cũng cho rằng bản thân Trung Quốc cũng muốn ra COC bởi họ muốn ngăn chặn các quốc gia khác cũng xây đảo nhân tạo và trang bị quân sự trên Biển Đông giống mình.”
Nhật Bản tăng cường can dự vào Biển Đông
và tác động đối với khu vực
Trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động phi pháp ở Biển Đông, Nhật Bản liên tục thể hiện quan điểm kiên quyết, nhất quán về vấn đề Biển Đông, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhật Bản trong khu vực, duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Cơ sở chính sách của Nhật Bản đối với Biển Đông
Về mặt địa lý, là quốc gia quần đảo thuộc khu vực Đông Bắc Á nằm sát Biển Đông và cũng nằm trong châu Á – Thái Bình Dương nên Nhật Bản có lợi ích gắn chặt với khu vực này trên nhiều mặt như kinh tế, thương mại, sự thịnh vượng, ổn định về chính trị, an ninh và sự tôn trọng trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp quốc tế.
Biển Đông là tuyến đường biển vận tải hàng hóa quan trọng bậc nhất đối với Nhật Bản. Khoảng 42% hàng hóa của Nhật Bản đi qua Biển Đông. Các hàng hóa của Nhật đi qua Biển Đông chủ yếu là nguyên liệu, đặc biệt các loại nhiêu liệu hóa thạch (fosil fuel) mà Nhật nhập khẩu để đảm bảo ổn định năng lượng. Nếu tuyến hàng hải ở Biển Đông bị cản trở, các tàu thuyền của Nhật Bản sẽ phải chuyển lộ trình sang eo biển Lombok và Đông Philippines khiến Nhật Bản mất thêm khoảng 600 triệu đô la mỗi năm cho chi phí vận tải. Theo nghiên cứu khác của một nhóm chuyên gia Nhật Bản, nếu như có xung đột xảy ra tại Biển Đông khiến tất cả các tuyến hàng hải đi qua đây bị đình trệ, Nhật Bản sẽ phải bỏ ra thêm 50% chi phí vận tải để đi các tuyến đường thay thế khác.
Lợi ích với đồng minh Mỹ – tự do hàng hải và hàng không: Lợi ích chính trị của Nhật Bản đối với đồng minh Mỹ cũng không kém phần quan trọng so với lợi ích về kinh tế thương mại của Nhật Bản trong khu vực Biển Đông. Mỹ là đồng minh số 1 của Nhật Bản tại châu Á – Thái Bình Dương; các lợi ích về an ninh của Nhật Bản và Mỹ có nhiều điểm tương đồng. Về tranh chấp lãnh thổ tại Biển Hoa Đông, Mỹ đã nhiều lần cam kết sẽ áp dụng Điều 5 của Hiệp ước đồng minh giữa hai nước đối với cả quần đảo Senkaku mà Nhật Bản đang có tranh chấp với Trung Quốc. Do đó, Nhật Bản cũng cần ủng hộ Mỹ đối với các hoạt động chung ở khu vực Biển Đông, do hai vùng biển này cùng liên thông với nhau. Nhật Bản đã diễn giải lại Hiến pháp cho phép hỗ trợ đồng minh Mỹ trong các vấn đề liên quan đến lợi ích an ninh của Nhật Bản. Hơn nữa, lợi ích của Mỹ liên quan đến tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông cũng tương đồng với Nhật Bản. Mỹ cần đảm bảo tự do thương mại trên biển và tự do trong việc di chuyển hải quân ở các vùng biển và Nhật thấy cần đảm bảo con đường tự do thương mại không bị cản trở bởi bất cứ nước nào. Nhật nhìn nhận rằng nếu để trật tự trên biển tại khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông bị tác động bởi các hành động có tính “cưỡng chế”, sẽ có những tác động bất lợi không chỉ ảnh hưởng tại Tây Thái Bình Dương mà cả trên phạm vitoàn cầu. Do đó, Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ các hoạt động tự do hàng hải của đồng minh Mỹ tại khu vực Biển Đông.
Chủ trương của Nhật Bản trong vấn đề Biển Đông
Qua các phát biểu của lãnh đạo Nhật cũng như các văn bản chính sách, tuyên bố của Nhật về Biển Đông cho thấy chính sách của Nhật Bản có các điểm lớn sau: Nhật Bản không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ và vùng biển; Nhật Bản chủ trương các tranh chấp phải giải quyết một cách hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp; Nhật Bản cũng lo việc đảm bảo một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương (trong đó bao gồm Biển Đông) tự do và mở, các nước tôn trọng tự do hàng hải và hàng không, thương mại biển không bị cản trở ảnh hưởng đến thịnh vượng của Nhật Bản; Nhật Bản giúp nâng cao năng lực cho các nước là các bên tranh chấp ở Biển Đông.
Ngày 12/7/2016, sau khi Tòa án trọng tài thường trực quốc tế (PCA) ra phán quyết về vụ kiện giữa Philíppin và Trung Quốc liên quan tới tranh chấp ở Biển Đông, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida tuyên bố phán quyết của PCA là phán quyết cuối cùng và mang tính ràng buộc pháp lý; các bên liên quan phải tuân thủ phán quyết này. Ngoại trưởng Kishida nêu rõ Nhật Bản kiên định ủng hộ việc tôn trọng quy định luật pháp và sử dụng các biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết các tranh chấp trên biển. Ngoài ra, trong cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Vương Nghị bên lề Hội nghị AMM 49, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida đã hối thúc Bắc Kinh chấp nhận và tuân thủ phán quyết của PCA, đồng thời bày tỏ quan ngại của Nhật Bản về tình hình Biển Đông hiện nay, hy vọng Trung Quốc sẽ tránh những hành động có thể làm leo thang căng thẳng tại vùng biển tranh chấp. Sách Trắng quốc phòng Nhật Bản năm 2016 đã nêu rõ các hoạt động hiện tại của Trung Quốc tại Biển Đông là bá quyền, đơn phương, hướng tới việc đặt các nước vào việc đã rồi trên vùng biển đang có tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán.
Một số mục tiêu của Nhật Bản đối với Biển Đông:
(i)Thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông: Nhật Bản kêu gọi các bên tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông, ủng hộ các nước ASEAN đấu tranh chống việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa, thúc đẩy ASEAN hóa và quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Trong những chuyến thăm đến các nước ASEAN, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đều đưa vấn đề tự do hàng hải, hàng không cũng như tình hình an ninh Biển Đông ra thảo luận. Chủ đề về Biển Đông luôn giữ vị trí cao trong quan hệ của Nhật Bản với một số nước có liên quan đến tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán với Trung Quốc như Philippines, Việt Nam, Indonesia… Ngoài các nước ASEAN, trong quan hệ với các nước có chung lợi ích trên Biển Đông như Australia, Ấn Độ, Anh…, Nhật Bản luôn tìm sự đồng thuận thông qua các công cụ như tự do, dân chủ, pháp chế. Ngoài quan hệ song phương, Nhật Bản cố gắng thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, gần như trong mọi diễn đang quốc tế. Trong hội nghị G7, G20, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), hội nghị giữa Nhật Bản và các nước châu Á – Thái Bình Dương, Nhật Bản nêu vấn đề bảo vệ luật quốc tế, bảo vệ tự do hàng hải, hàng không để đưa tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển Đông vào chương trình nghị sự của hội nghị. Đồng thời, Nhật Bản cũng lên tiếng yêu cầu các nước liên quan xác định rõ quyền lợi biển của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế, ủng hộ việc nhanh chóng xây dựng bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), phê phán hoạt động bồi lấp và xây dựng hạ tầng của Trung Quốc tại một số đảo đá ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
(ii)Giúp một số nước ASEAN bảo vệ quyền lợi, nâng cao năng lực phòng thủ trên biển: Một mặt, Nhật Bản hỗ trợ trang bị cho các nước liên quan trực tiếp tranh chấp ở Biển Đông như Việt Nam, Philíppin nhằm tăng cường khả năng cảnh báo trên biển và củng cố lực lượng tiền duyên của các nước này để đối phó với Trung Quốc. Trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á – Đối thoại Shangri La năm 2014, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố cần phải chi viện trên thực tế để Việt Nam, Philippines, Malaysia tăng cường năng lực quân sự trên biển. Nhằm nâng cao khả năng phòng thủ biển của các nước ASEAN, Nhật Bản đã kết hợp các khoản hỗ trợ như viện trợ phát triển chính thức (ODA), đào tạo nâng cao khả năng do Lực lượng phòng vệ Nhật Bản (SDF) tổ chức, hợp tác về trang bị phòng thủ, để trợ giúp các nước này. Mặt khác, Nhật Bản thông qua các hình thức huấn luyện, diễn tập quân sự chung với các nước ASEAN để nâng cao khả năng quân sự của các nước này và giúp cho quân đội Nhật Bản thông thạo tình hình thực tế trong khu vực Biển Đông, nhằm thử nghiệm cho việc tuần tra, giám sát của Nhật Bản tại khu vực biển này. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 2015, tàu chiến của Nhật Bản và Philippines nhiều lần tiến hành diễn tập chung tại vùng biển của Philippines. Tháng 8 năm 2015, Nhật Bản, Mỹ và Philippines tiến hành diễn tập cứu trợ nhân đạo tại vịnh Subic. Đối với Việt Nam, tháng 5 năm 2015, đã có hai máy bay tuần tra trên biển P-3C của Nhật Bản lần đầu đến Đà Nẵng; tháng 11 năm 2015, Việt Nam và Nhật Bản đã đạt được nhận thức chung về việc tàu chiến của Nhật Bản có thể cập cảng Cam Ranh.
(iii) Củng cố mối quan hệ đồng minh Nhật – Mỹ: Nhật Bản coi quan hệ đồng minh Nhật – Mỹ là khuôn khổ cơ chế hợp pháp cho việc can dự vào Biển Đông. Chiến lược bảo đảm an ninh quốc gia của Nhật Bản chỉ rõ là những nước có mạng lưới thương mại toàn cầu phụ thuộc vào đường biển, Mỹ và Nhật nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì trật tự trên biển dựa trên nền tảng luật pháp quốc tế, trong đó có quyền tự do hàng hải và hàng không. Do đó, đảm bảo an ninh tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông là vấn đề có tính nguyên tắc, không để bất cứ một thế lực nào tuyên bố vùng nhận diện phòng không và đe dọa đến tự do hàng hải quốc tế. Sự phối hợp và hợp tác Nhật – Mỹ trong vấn đề Biển Đông còn biểu hiện ở việc hai nước phối hợp giúp đỡ các nước hữu quan xây dựng năng lực phòng thủ.
(iv) Giành thế chủ động trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, kiềm chế Trung Quốc trên nhiều phương diện: Nhật Bản và Trung Quốc có tranh chấp lâu dài ở Biển Hoa Đông, đặc biệt là quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhật Bản cho rằng nếu Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông thì sẽ gây ảnh hưởng bất lợi đối với tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Mục đích chiến lược của Nhật Bản là hình thành thế phối hợp tác chiến hai cánh Biển Đông và Biển Hoa Đông, từ đó cản trở hoạt động của Trung Quốc trên biển Hoa Đông. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng mong muốn hỗ trợ một số nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông, để đổi lại sự ủng hộ của các nước này đối với Nhật Bản trong vấn đề Biển Hoa Đông; tạo mối liên kết giữa Nhật Bản với một số nước Đông Nam Á trong vấn đề tranh chấp trên biển, khiến Trung Quốc rơi vào cảnh phải tác chiến trên cả hai mặt trận Biển Hoa Đông và Biển Đông; đồng thời, kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản muốn nhân vấn đề Biển Đông, tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước ASEAN là các bên tranh chấp ở Biển Đông, đẩy mạnh viện trợ cho các nước này về kinh tế và quân sự, qua đó nâng cao hơn nữa ảnh hưởng của mình trong khu vực, hình thành một “liên minh chiến lược biển” để đối phó với Trung Quốc. Nhật Bản cho rằng Biển Đông như một cái “hang trống”, sẽ hút hết sức mạnh của Trung Quốc vào đó; Trung Quốc càng cứng rắn thì càng lún sâu tại Biển Đông, nếu giành được chiến thắng tại đây thì cũng hao tổn sức lự…, ảnh hưởng đến việc phát triển của Trung Quốc, nhất là quá trình trở thành cường quốc biển thế giới.
(v) Nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á: Một mục tiêu quan trọng của Nhật Bản khi can dự vào vấn đề Biển Đông chính là tăng cường sự ảnh hưởng của nước này tại khu vực Biển Đông, tích cực can dự đối với cục diện an ninh khu vực, xây dựng hình ảnh nước lớn ở khu vực. Những năm qua, cùng với đột phá trong việc sửa đổi Hiến pháp, đặc biệt là sau khi nới lỏng nguyên tắc xuất khẩu vũ khí, Nhật Bản đã tích cực bán vũ khí cho các nước Đông Nam Á nhằm một mặt, nâng cao thực lực quân sự của các nước này, đối phó với Trung Quốc đang không ngừng trỗi dậy; đồng thời, không ngừng củng cố, nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản ở khu vực này. Phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tổ chức tại Lào tháng 9/2016, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế. Thủ tướng Shinzo Abe bày tỏ lo ngại sâu sắc về những hoạt động đơn phương thay đổi hiện trạng tiếp tục diễn ra trên Biển Đông và Biển Hoa Đông. Thủ tướng Abe nhấn mạnh thượng tôn pháp luật phải là nguyên tắc chung cần được quán triệt trong cộng đồng quốc tế; các bên liên quan cần kiềm chế các hành động gia tăng căng thẳng khu vực, theo đuổi giải quyết hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.
Nhật Bản tăng cường can dự vào khu vực Biển Đông
Nhật Bản đã thực hiện nhiều biện pháp can dự vào vấn đề Biển Đông nhằm thực hiện được mục tiêu của mình đối với khu vực Biển Đông. Các mục tiêu đó là đảm bảo sự ổn định, hòa bình, đảm bảo an ninh tự do hàng hải và hàng không theo luật pháp quốc tế, các bên liên quan không được đơn phương dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán:
(i) Mở rộng sự hiện diện và củng cố quan hệ quốc phòng. Trước hết, Nhật Bản mở rộng sự hiện diện. Thông qua các sáng kiến mới như Lực lượng phòng vệ Nhật Bản (gọi tắt là JMDF), tới thăm các quốc gia thành viên ASEAN hoặc tham gia các cuộc tập trận song phương và đa phương. Tháng 3 năm 2016, một tàu của JMDF đã cập cảng Malaixia để tham gia những đợt tập trận huấn luyện thân thiện với lực lượng hải quân Malaixia. Tiếp đó, tháng 4 năm 2016, tàu ngầm Oyashio cùng tàu khu trục Ariake và Setogiri đã cập cảng tại Vịnh Subic của Philippines trong chuyến thăm đầu tiên kể từ năm 2002. Tiếp đó, Ariake và Setogiri cũng lần đầu tiên tới Vịnh Cam Ranh của Việt Nam. Trong khoảng thời gian đó, tàu khu trục cỡ lớn Ise lần đầu tiên vượt qua Biển Đông, tham gia hoạt động cùng các hạm đội quốc tế và tập trận đa phương ở Indonesia. Ngày 13/7/2016, cuộc tập trận chung giữa Cảnh sát biển Nhật Bản (viết tắt là JCG) và Cảnh sát biển của Philippines (PCG) đã diễn ra ngoài khơi vịnh Manila, đúng một ngày sau khi PCA công bố phán quyết trong vụ Philippines khởi kiện Trung Quốc. Dù quan điểm của hai nước về cuộc tập trận là không nhằm vào Trung Quốc, nhưng thời điểm của nó cho thấy rõ ràng đây là một phản ứng có liên quan đến sự việc trên. Bên cạnh đó, JMDF cũng đã tham gia tập trận cùng Mỹ và Australia vào tháng 2 năm 2016 ở vùng biển của Singapore và tháng 4 năm 2016 ở vùng biển lân cận của Indonesia. Thực tế cho thấy, Nhật Bản cũng đang tiến hành các bước đi khác nhằm tăng cường sự hiện diện ở trong khu vực thông qua các hoạt động như tham gia các khuôn khổ đa phương. Điển hình là việc Nhật Bản đã cử một đội ngũ khá lớn của Lực lượng phòng vệ quốc gia tham gia vào cuộc tập trận an ninh hàng hải chung được tổ chức bởi Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM-Plus) diễn ra ở vùng biển và không phận giữa Bruneivà Singapore. Ngoài việc mở rộng sự hiện diện, Nhật Bản còn tăng cường quan hệ đối tác với các nước ASEAN thông qua hỗ trợ xây dựng năng lực và hợp tác về thiết bị quốc phòng.
(ii) Hỗ trợ vũ khí và trang bị cho các nước trong khu vực. Với Việt Nam:Tháng 3/2014, khi chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang thăm Nhật Bản, hai nước Việt Nam và Nhật Bản đã ký Hiệp định Quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng, trong đó có điều khoản Nhật Bản sẽ tăng cường hỗ trợ năng lực cho các cơ quan chấp pháp trên biển của Việt Nam. Kể từ đó cho đến nay đã có nhiều hoạt động triển khai hỗ trợ năng lực trên biển của Nhật Bản cho Việt Nam. Ngay sau đó, trong chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Nhật Bản Kishida, Nhật Bản đã tuyên bố sẽ hỗ trợ ODA không hoàn lại 6 tàu tuần tra biển cho Việt Nam. Các tàu tuần tra này có trọng tải từ 600-800 tấn và sẽ được Việt Nam sử dụng cho mục đích tuần tra trên biển. Nhật Bản thậm chí cũng đề nghị hỗ trợ thêm các tàu tuần tra mới cho Việt Nam. Ngoài ra, Nhật Bản thực hiện nhiều hoạt động trao đổi hỗ trợ đào tạo cho cán bộ quốc phòng Việt Nam. Thông qua Quỹ hòa bình Sasakawa, kể từ năm 2014, quỹ này đã có chương trình trao đổi cán bộ quốc phòng với các nước Đông Nam Á trong đó hàng năm đều có các đoàn cán bộ quốc phòng của Việt Nam sang Nhật theo chương trình này. Nhật Bản hiện đang đề nghị hợp tác đào tạo cho cán bộ Việt Nam về các hoạt động tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ nhân đạo và các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc (PKO). Nhật Bản cũng thực hiện nhiều hoạt động diễn tập trung trên biển nhằm đào tạo năng lực cho lực lượng chấp pháp của Việt Nam. Tháng 2/2016, một phi đội của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản bao gồm hai máy bay tuần tra P-3C đã cùng Việt Nam thực hiện các hoạt động diễn tập trên biển. Một trong các nội dung diễn tập là máy bay P-3C của Nhật Bản sẽ cùng tàu của Việt Nam hỗ trợ cứu tàu dân sự gặp nạn trên biển. Tháng 3/2016, lần đầu tiên 2 tàu khu trục Nhật Bản đã thăm cảng Cam Ranh Việt Nam. Tháng 6/2017, hải quân của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã có hoạt động tập trận chung với Việt Nam tại Đà Nẵng. Tham gia tập trận là tàu Echigo của Nhật trọng tải 3100 tấn có khả năng trở trực thăng, còn Việt Nam sử dụng các tàu tuần tra đã được Nhật Bản cung cấp. Các hoạt động tập trận liên quan đến chống tàu đánh bắt cá trái phép trên biển.
Với Philippines, từ năm 2011 dưới thời cầm quyền của Tổng thống Philippines Aquino,Nhật Bản và Philippines đã có các thoả thuận về hợp tác an ninh bảo vệ đường biển, trong đó có đường biển tại Biển Đông. Theo đó, hai bên tăng cường hợp tác về hải quân và cảnh sát biển. Năm 2013, trong chuyến thăm Philippines của Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida, Ngoại trưởng Kishida đã nhấn mạnh quan hệ đối tác chiến lược với Philippines và cam kết hỗ trợ Philippines trong việc đối phó với các tranh chấp ngày càng tăng lên với Trung Quốc ở Biển Đông xoay quanh sự kiện Trung Quốc chiếm bãi Scarborough năm 2012. Tháng 7/2013, trong chuyến thăm cấp cao Philippines, Thủ tướng Nhật Abe đã cam kết hỗ trợ Philippines 10 tàu tuần tra thông qua hình thức hỗ trợ ODA nhằm củng cố năng lực cho lực lượng cảnh sát biển của Philíppin. Theo nguồn tin công khai, Philippines đã nhận được chiếc tàu tuần tra đầu tiên trong 10 chiếc tàu này vào tháng 8/2016. Tháng 3/2016, tại Philippines, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật đã ký hiệp định chuyển giao trang thiết bị quốc phòng với Philippines. Theo đó, Nhật Bản sẽ chuyển giao cho Philippines 05 máy bay tuần tra TC-90 đã hết hạn sử dụng ở Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản nhằm nâng cao năng lực tuần tra trên biển cho Philíppin. Tại thời điểm này, các máy bay tuần tra trên biển của Philippines chỉ có bán kính hoạt động là 300km. Các máy bay tuần tra mới chuyển giao này của Nhật Bản cho Philippines sẽ có tầm hoạt động sẽ bao trùm toàn bộ quần đảo Trường Sa và có khả năng giám sát các hoạt động bằng hình ảnh. Trong cuộc gặp với Tổng thống Philippines Duterte vào tháng 9/2016, Thủ tướng Nhật Bản Abe đã đồng ý hỗ trợ thêm cho Philippines hai tàu tuần tra cỡ lớn dài 90m, bên cạnh 10 tàu tuần tra cỡ nhỏ cam kết trước đó. Ngoài ra, Nhật triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ đào tạo cho cán bộ chấp pháp/quốc phòng của Philíppin. Cuối năm 2014, Nhật Bản và Mỹ cũng đã tổ chức tập trận ba bên với hải quân Philippines với sự tham gia của tàu tên lửa dẫn đường Ticonderoga của Mỹ và tàu khu trục JS Sazanami của Nhật Bản, thực hiện các hoạt động bắn đạn thật và trao đổi thông tin liên lạc. Tháng 3/2016, tàu ngầm Oyashiyo cùng với các tàu khu trục Ariake và Setogiri đã thăm cảng Subic của Philippines lần đầu tiên sau 15 năm. Tháng 5/2015, sau khi thực hiện các nhiệm vụ ở Vịnh Aden, hai tàu khu trục của Nhật Bản đã tham gia tập trận hải quân cùng Phillippines ở Biển Đông. Tháng 6/2016, Nhật Bản cùng Mỹ cũng tham gia tập trận ba bên với Philippines ở khu vực quần đảo Palawan nhằm nâng cao khả năng tương tác và phối hợp hành động của hải quân ba nước.Ngày 13/7/2016, ngay sau khi Toà Trọng tài ra phán quyết về tranh chấp trên biển giữa Philippines và Trung Quốc, Nhật Bản và Philippines đã tổ chức tập trận của cảnh sát biển hai nước ở gần Vịnh Manila. Tháng 6/2017, tàu
Echigo Nhật Bản cũng tham gia tập trận chống cướp biển với Philippinesbằng các tàu do Nhật Bản hỗ trợ cho Philippines tại Davao.
Với Indonesia, tháng 12/2016, Nhật Bản và Indonesia đã thoả thuận thành lập Diễn đàn Biển Nhật Bản – Indonesia. Theo đó, hai bên sẽ củng cố hợp tác hải quân hai nước và Nhật Bản sẽ giúp Indonesia phát triển các đảo xa bờ nhằm củng cố năng lực bảo vệ vùng biển cho Indonesia. Theo thông tin mới đây vào tháng 9/2017, sau cuộc gặp của cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Nhật Abe với Bộ trưởng Nghề cá Indonesia, hai bên đã thảo luận cụ thể 6 khu vực hợp tác biển trong đó bao gồm quần đảo Natuna chồng lấn với đường lưỡi bò. Các lĩnh vực Nhật Bản đồng ý trợ giúp cho Indonesia bao gồm xây dựng các cảng cá, đóng các tàu tuần tra biển, tàu đa chức năng và xây dựng hệ thống rada và vệ tinh biển nhằm phát hiện các tàu cá nước ngoài xâm phạm vùng biển của Indonesia. Hai nước dự tính hiệp định cụ thể triển khai các hoạt động hỗ trợ của Nhật Bản đối với Indonesia có thể sẽ được ký kết vào tháng 11/2017 bên lề thượng đỉnh Cấp cao Đông Á (EAS) tại Philippines.
Nhật Bản hợp tác với khối ASEAN: Ngoài các nước chủ chốt trong khu vực, Nhật Bản có hoạt động hợp tác với cả khối như Nhật đã tham gia tập trận đa phương về an ninh biển do ADMM+ tổ chức gần vùng biển của Indonesia vào tháng 4/2016. Tháng 6/2017, Nhật đã lần đầu tiên mời quan chức quốc phòng của các nước Đông Nam Á lên thăm tàu trực thăng Izumo lớn nhất của Nhật neo đậu tại Singapo nhân dịp tàu này có hoạt động đi vào khu vực Biển Đông.
Chính sách của Nhật Bản có tác động, ảnh hưởng đối với khu vực
Tác động chính sách Biển Đông của Nhật Bản đối với Việt Nam: Nhật Bản đã tích cực và có sự điều chỉnh về chính sách cũng như triển khai trên thực địa các hoạt động của mình tại khu vực Biển Đông. Sự điều chỉnh chính sách và việc triển khai tích cực hoạt động của Nhật Bản có những tác động như sau: (i) Góp phần quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, nêu và ủng hộ các lập trường của Việt Nam đối với tranh chấp ở Biển Đông tại các diễn đàn quốc tế. Nhật Bản đã nhiều lần lên tiếng phản đối các hành động như xây dựng và quân sự hóa các đảo trên biển ở quy mô lớn của Trung Quốc; ủng hộ phán quyết của Toà trọng tài; phản đối các hành động đơn phương của Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp trên biển; đưa thông tin về vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc vào vùng biển Việt Nam và các hoạt động đâm va có chủ ý của tàu Trung Quốc… Qua chính sách và các hành động trên thực tế như hiện nay của Nhật Bản, có thể dự đoán Nhật Bản sẽ tiếp tục có tiếng nói mạnh mẽ về vấn đề Biển Đông trên các diễn đàn song phương và đa phương trong thời gian tới. Nhật Bản là một nước có uy tín và vị thế lớn về kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao ngoài khu vực. Việc Nhật phối hợp với các nước lớn khác như Mỹ, Ôxtrâylia, Ấn Độ lên tiếng về tình hình Biển Đông sẽ có lợi cho Việt Nam trong việc ngăn chặn các hành động đơn phương không tuân theo luật pháp quốc tế của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ phải tính toán nhiều hơn đến phản ứng quốc tế khi muốn tiến hành các hành động gây hấn trên Biển Đông. (ii) Xây dựng năng lực cho các lực lượng chấp pháp trên biển và phát triển khai thác biển.Với trọng tâm triển khai xây dựng năng lực trên biển cho các nước tập trung vào hai mảng chính là hỗ trợ trang thiết bị phần cứng như tàu tuần tra, máy bay tuần tra; và hỗ trợ phần mềm như đào tạo, huấn luyện kỹ năng cho cán bộ chấp pháp biển thì Việt Nam sẽ tiếp tục có được sự hỗ trợ để nâng cao năng lực chấp pháp trên biển. Hiện nay Việt Nam đang còn thiếu kể cả về số lượng cũng như chất lượng các trang thiết bị phục vụ cho tuần tra bảo vệ an ninh biển. Nhu cầu nâng cao năng lực chấp pháp biển càng tăng lên do nhu cầu phát triển kinh tế biển và quản lý các hoạt động trên biển của Việt Nam; xu thế số lượng tàu cá nước ngoài hoạt động đánh bắt cá trái phép trong vùng biển của Việt Nam ngày càng tăng lên; Trung Quốc tiếp tục áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá đơn phươngtrên Biển Đông trong đó có vùng biển của Việt Nam; các tình huống về tranh chấp trên biển sẽ có nhiều phức tạp khó lường cần phải tăng cường năng lực chấp pháp biển. Các lực lượng chấp pháp biển Việt Nam cần thêm nhiều các phương tiện để giám sát quản lý các hoạt động đánh bắt cá của ngư dân Việt Nam như định vị, vệ tinh, hải đồ, thiết bị thông tin liên lạc, tàu thuyền giám sát nhằm khuyến cáo và quản lý ngư dân trên. Nhật Bản là một quốc gia biển đã có những công nghệ vượt trội về khai thác và bảo vệ nguồn lợi từ biển nên việc hỗ trợ của Nhật Bản sẽ trong lĩnh vực này sẽ rất có ích cho phát triển kinh tế biển của Việt Nam, trong việc khai thác, nuôi trồng, chế biển thuỷ, hải sản cũng như lập các khu vực bảo tồn biển…nhằm tránh cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản. Các hoạt động này cũng giúp Việt Nam khai thác biển bền vững tại vùng biển của mình.
Tác động chính sách Biển Đông của Nhật Bản đối với Trung Quốc: Trong xu thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh và vừa kiềm chế lẫn nhau, quan điểm của Nhật Bản đối với Biển Đông sẽ có những tác động nhất định đối với Trung Quốc trên nhiều góc độ khác nhau. (i) Vấn đề Biển Đông là một trong
những yếu tố tác động đến lòng tin chính trị giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN. Việc giải quyết vấn đề Biển Đông một cách công bằng, hợp lý sẽ trở thành mắt xích quan trọng để hai bên tăng cường lòng tin chính trị và triển khai quan hệ hợp tác an ninh trong khuôn khổ Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN. Để giải quyết vấn đề Biển Đông một cách hòa bình, Trung Quốc đã đưa ra tư tưởng tiếp cận kép với nội dung: Tranh chấp cụ thể do các nước trực tiếp liên quan giải quyết hòa bình thông qua đàm phán, hiệp thương dựa trên cơ sở tôn trọng sự thực lịch sử và luật pháp quốc tế; ổn định, hòa bình Biển Đông do Trung Quốc và các nước ASEAN cùng chung sức bảo vệ. Trung Quốc muốn giải quyết vấn đề Biển Đông bằng đàm phán song phương. Chính sách của Nhật Bản đã tạo ra sự tương phản với chính sách của Trung Quốc. Theo nhận xét của nhiều giới quan sát, Nhật Bản đã sử dụng thành công Thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc, làm nổi bật bản chất chính sách “kẻ thắng người thua” với chiêu bài “cùng thắng” của Trung Quốc. Hiểu theo nghĩa đó, Nhật Bản đã thách thức Trung Quốc về mặt ngoại giao trên vấn đề Biển Đông. (ii) Là một cường quốc về công nghệ trên thế giới và là cường quốc biển tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, sự giúp đỡ của Nhật Bản về trang bị và kỹ thuật quân sự cho các nước như Philippines, Việt Nam cũng như việc huấn luyện, tiến hành diễn tập quân sự chung sẽ tăng cường khả năng quân sự của các nước này, qua đó gia tăng áp lực quân sự đối với Trung Quốc. Chiến lược bảo đảm an ninh quốc gia của Nhật Bản quy định Nhật Bản sẽ đứng trên quan điểm chủ nghĩa hòa bình tích cực, thông qua trang bị phòng thủ linh hoạt, tích cực tham gia hợp tác quốc tế và đóng góp cho hòa bình khu vực, thay thế 3 nguyên tắc xuất khẩu vũ khí bằng 3 nguyên tắc chuyển giao công nghệ và trang bị phòng thủ, nâng cao sức mạnh quân sự Nhật Bản thông qua trang bị vũ khí sử dụng linh hoạt. Điều này cho phép Nhật Bản có thể chuyển giao trang bị quân sự thuận tiện hơn, không chỉ cho Philippines, Việt Nam mà còn các nước khác trong khu vực Biển Đông như Indonesia, Malaysia… Đặc biệt, khuôn khổ liên minh quân sự giữa Mỹ và Nhật Bản đã được áp dụng cho các vấn đề an ninh biển. Phương hướng chính sách và biện pháp thực hiện của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông sẽ gây sức ép quân sự lớn hơn đối với Trung Quốc cả về tương quan so sánh lực lượng và sự lựa chọn sử dụng lực lượng quân sự trên biển.
0 nhận xét