Tranh Biển Đông – 05/10/2016
Nga và Trung Quốc thông đồng tại Biển Đông ?
Tại hội nghị thượng đỉnh G20 ở Hàng Châu hồi tháng Chín, Trung Quốc tỏ rõ rằng tổng thống Nga Vladimir Putin là thượng khách hàng đầu. Cả Nga và Trung Quốc đều khoe là quan hệ song phương « tốt đẹp hơn bao giờ hết », đồng thời chứng tỏ một « sự tin tưởng cao độ chưa từng có ». Ông Putin mô tả quan hệ này là « đối tác toàn diện và hợp tác chiến lược ».
Quan hệ Nga-Trung dựa trên mong muốn chung là đẩy lùi Hoa Kỳ, chống lại sự phát triển NATO ở châu Âu và chính sách tái cân bằng sang châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Các biện pháp trừng phạt do Mỹ và châu Âu áp đặt đối với Nga đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này, Nga cần thị trường mới để xuất khẩu năng lượng, đặc biệt là dầu khí. Trung Quốc đã ký kết một hợp đồng lớn mua khí đốt của Nga, và là một thị trường rộng lớn cho vũ khí và công nghệ Nga.
Ve vãn Trung Quốc, nhưng không muốn mất lòng Việt Nam và Ấn Độ
Tuy nhiên, theo giáo sư Carl Thayer của trường đại học New South Wales, Úc, lợi ích của Nga v à Trung Quốc không phải luôn hòa hợp với nhau. Nga lo lắng trước dự án « Một vành đai, một con đường » của Tập Cận Bình, vốn nhằm mở rộng sang Trung Á. Matxcơva cũng đối mặt với thách thức khó khăn là làm thế nào xúc tiến quan hệ với Bắc Kinh mà không làm phương hại đến quan hệ truyền thống với Việt Nam, Ấn Độ ; trong khi cả hai nước này đều chịu áp lực nặng nề của Trung Quốc.
Sự giằng co này được biểu lộ qua quan điểm của Nga về Biển Đông. Đầu tiên Matxcơva không đứng về bên nào trong tranh chấp, và ủng hộ tự do hàng hải, kể cả tự do hàng không, giải quyết tranh chấp một cách hòa bình giữa các bên liên quan dựa trên luật pháp quốc tế. Nhưng gần đây Nga lại phản đối sự can dự của bên thứ ba ngoài khu vực, vì theo Putin, sự tham gia này « sẽ chỉ làm thiệt hại cho việc giải quyết vấn đề, và phản tác dụng ».
Ông Putin ủng hộ lập trường của Trung Quốc về phán quyết mới đây của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực (PCA) với lý do là phán quyết được đưa ra mà không có sự hiện diện của Trung Quốc, hay quan điểm của Bắc Kinh không được xét đến. Putin biện hộ rằng đây là vấn đề pháp lý hơn là chính trị.
Thực ra, ông thiếu thông tin (hoặc là chọn lựa làm ngơ), rằng thủ tục trọng tài được tiến hành theo phụ lục VII của UNCLOS, mà điều 9 nói rõ « sự khiếm diện của một bên hay việc một bên thất bại trong việc biện hộ sẽ không được coi là trở ngại cho tiến trình ».
Kết luận rút ra là ông Putin chắc chắn đang cố gắng tìm cách lấy lòng Trung Quốc, cho dù phải trả cái giá là ảnh hưởng đến những mối quan hệ bằng hữu xưa nay trong khu vực.
Nga và Việt Nam thỏa thuận rằng tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông phải được giải quyết một cách hòa bình bởi các bên liên quan. Nhưng Nga không tôn trọng quan điểm của Việt Nam là khi liên quan đến lợi ích của bên thứ ba trong khu vực, thì bên thứ ba này phải được tham gia đàm phán. Việt Nam ghi nhận lợi ích của các bên ngoài khu vực, đặc biệt khi liên quan đến tự do hàng hải và hàng không.
Yêu sách chủ quyền quá đáng và các đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Biển Đông nhắm vào việc thống trị vùng biển này, rốt cuộc đã hạn chế các hoạt động của các chiến hạm Hoa Kỳ (và những nước khác). Nói một cách khác, các hành động của Trung Quốc đe dọa tự do hàng hải và hàng không của các quốc gia trong khu vực cũng như các cường quốc khác.
Giáo sư Carl Thayer nhận định, như vậy Nga đã giả dối, vì trên thực tế lợi ích của bên thứ ba ngoài khu vực bị Trung Quốc xâm hại. Ông Putin ủng hộ tự do hàng hải cho Hải quân Nga, nhưng làm ngơ nếu Bắc Kinh gây khó khăn cho Hải quân Hoa Kỳ.
Không sử dụng từ « đồng minh »
Cũng theo giáo sư Thayer, mặc cho sự gần gũi mới này, cả Nga và Trung Quốc đều thận trọng không sử dụng từ « đồng minh » để chỉ quan hệ chính trị và quân sự của đôi bên.
Thường thì quan hệ đồng minh chính thức nhằm đối phó trực tiếp với bên thứ ba, liên quan đến một cam kết mà đôi bên đã ký kết để có hành động chung trong những tình huống nhất định, như một cuộc tấn công vũ trang vào một trong các bên. Đương nhiên là một đồng minh Nga-Trung nhắm vào Hoa Kỳ và các đồng minh của Mỹ, trên thực tế có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh lạnh mới.
Và như thế sẽ phản tác dụng. Một liên minh Nga-Trung có thể tạo hệ quả là tái tạo sinh lực cho mạng lưới đồng minh Mỹ ở cả châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương. Các nước thành viên ASEAN riêng rẽ có thể chịu áp lực nặng nề phải đứng về một bên nào đó để củng cố an ninh của chính mình.
Cuối cùng, giả thiết về đồng minh Nga-Trung có thể gây ra một cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu, tạo thêm căng thẳng và làm tăng nguy cơ xung đột ở biển Hoa Đông cũng như Biển Đông, nơi cả ba cường quốc có lợi ích cụ thể.
Giáo sư Thayer kết luận, Trung Quốc và Nga sẽ tiếp tục làm việc chung khi có cùng lợi ích. Hai bên sẽ phối hợp hành động và hợp tác về an ninh cũng như các vấn đề chiến lược gây ảnh hưởng đến họ, đặc biệt là đối phó với các hỏa tiễn đạn đạo của Mỹ ở châu Âu, và hệ thống lá chắn tên lửa (THAAD) tại Hàn Quốc. Nhưng Bắc Kinh và Matxcơva cũng sẽ hợp tác với Washington nếu thấy có lợi cho mình.
Nga và Hoa Kỳ đã làm việc cùng nhau để giải quyết cuộc xung đột Syria (tuy nhiên những khó khăn trong hồ sơ này cũng có thể khiến đôi bên quay mặt). Trong khi đó Trung Quốc và Hoa Kỳ hợp tác trên một loạt vấn đề quốc tế đa dạng, từ biến đổi khí hậu cho đến nguyên tử Bắc Triều Tiên.
Do đó, theo giáo sư Carl Thayer, những gì chúng ta trông thấy có thể nói một cách chính xác hơn là sự hợp tác nhất thời vì những lợi ích giới hạn, chứ không phải là một cam kết chiến lược sâu sắc giữa Nga và Trung Quốc.
0 nhận xét