Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ
Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016
18:37
//
Tìm hiểu
18/04/2014
TT - Làm nên chữ quốc ngữ từ mẫu tự Latin là một kỳ công khi tiếng Việt từ lâu được ký âm bằng chữ Hán và tiếp theo là chữ Hán Nôm.
Vấn đề chờ trông các nhà nghiên cứu xác định: ai là người có công đầu, đâu là nơi ở nước ta mở ra sự hình thành chữ quốc ngữ, một ngày kỷ niệm chữ quốc ngữ mỗi năm vốn đang được nhiều người đặt ra...
Nơi đặt bia di tích cư sở Nước Mặn (xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, Bình Định). Cư sở này được giáo sĩ Francesco Buzomi xây dựng năm 1618 - Ảnh: H.V.M.
|
Từ nhu cầu cần thiết cho công việc, các giáo sĩ dòng Tên của Công giáo từ phương Tây sang nước ta truyền đạo hồi đầu thế kỷ 17 đã nghĩ đến việc dùng mẫu tự Latin ký âm tiếng Việt để tiện cho đôi bên học hỏi ngôn ngữ của nhau. Phác lại bước đầu của việc sáng chế chữ quốc ngữ - mà lâu nay được gọi là chữ Việt - quả là lý thú và cảm động...
Kiên trì mò mẫm
Theo linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. - tác giả sách Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), từ đầu thế kỷ thứ 17 các giáo sĩ dòng Tên đến Nhật Bản truyền đạo đã thành công trong việc dùng mẫu tự Latin để ký âm và làm nên chữ Nhật mới romaji - chữ Nhật Latin hóa - hồi cuối thế kỷ 16. Bởi vậy, khi đến Việt Nam, các giáo sĩ dòng Tên đã vận dụng cách làm này để ký âm tiếng Việt và làm nên chữ Việt mới để thuận lợi cho sứ vụ truyền giáo của mình.
Nhưng các giáo sĩ đến đây dù tất cả đều am hiểu một số ngôn ngữ châu Âu, với họ lúc đầu tiếng Việt quả là rất khó học vì đã đơn âm lại có thanh điệu, rất khó trong việc phát âm, một âm chỉ cần đọc nặng - nhẹ một tí là sẽ có nghĩa hoàn toàn khác nhau. “Khi vừa đến Đàng Trong, nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ học được tiếng Việt” - giáo sĩ Alexandre de Rhodes (gọi tắt là Đắc Lộ), người đến Hội An, Quảng Nam và ở lại cư sở Thanh Chiêm (cách cảng thị Hội An chừng 7km về hướng tây) vào cuối năm 1624 để truyền đạo, kể lại.
Nghe cũng như nói trọn một câu tiếng Việt có nhiều từ hẳn là khó, nhưng với câu chỉ vài từ vẫn không dễ vì cách phát âm theo đúng thanh điệu rất tế nhị. Vẫn giáo sĩ Đắc Lộ kể: một giáo sĩ ở cùng với ông đã nhờ người giúp việc đi chợ mua cá về dùng bữa, nhưng vì cách phát âm của vị giáo sĩ không chuẩn, bà giúp việc thay vì mua cá lại mua về một thúng cà. Biết mình đã nói sai từ “cá” thành “cà”, vị giáo sĩ liền xin lỗi người giúp việc. Còn một vị giáo sĩ khác thì lại làm đám trẻ trong nhà mình hoảng sợ và bỏ chạy tán loạn khi ông nhờ người trong nhà mình đi chém (chặt, đốn) tre nhưng ông lại đọc là đi “chém trẻ”!
Nhưng, vượt qua khó khăn bước đầu, rồi khám phá ra sự “du dương hòa điệu”, “giống như bản nhạc liên hồi” của tiếng Việt - như các giáo sĩ Cristophoro Borri và Đắc Lộ nhận xét, ai có khiếu âm nhạc thì việc học tiếng Việt không khó. Nhờ vậy, qua miệt mài học hỏi, luyện tập, nhiều giáo sĩ - trong đó có Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha), C. Borri (người Ý) và Đắc Lộ (người Pháp) - đã nhanh học được tiếng Việt.
Những giai đoạn mở đầu
Vạn sự khởi đầu nan. Và sự khởi đầu của một công trình, một cuộc cách mạng ngôn ngữ càng rất khó khăn. Linh mục Đỗ Quang Chính đã trân trọng chia lịch sử buổi đầu của việc hình thành chữ quốc ngữ từ năm 1620-1648 thành hai giai đoạn: 1620-1626 và 1631-1648.
Quả là khá nhanh và sớm khi từ năm 1620-1626, nền móng “ngôi nhà” quốc ngữ đã đặt được những viên đá tảng cơ bản, bởi các giáo sĩ dòng Tên chỉ mới đặt chân đến đất Quảng Nam (thuộc xứ Đàng Trong) vào đầu năm 1615, trải qua nhiều lao đao trong việc lập cư sở truyền đạo. Từ cư sở Hội An - 1615, rồi đến các cư sở Nước Mặn (tỉnh Bình Định) -1618 và cư sở Thanh Chiêm (Quảng Nam) - 1623, với nỗ lực học tiếng Việt bền bỉ, các giáo sĩ ở đây đã từng bước Latin hóa được một số từ tiếng Việt về tên đất, tên người cùng những danh từ bản xứ với chiều hướng ngày càng tiến bộ.
Bằng chứng của tiến trình này được rút ra từ những báo cáo thường niên của các giáo sĩ ở các cư sở Hội An, Nước Mặn, Thanh Chiêm gửi về vị giám mục bề trên cả dòng Tên ở La Mã, hiện còn lưu giữ ở các thư viện, văn khố các nước châu Âu. Đọc qua các từ quốc ngữ được linh mục Đỗ Quang Chính rút ra từ bảy bản báo cáo thường niên (1620-1626), thật xúc động trước công lao khó nhọc của những người tiên phong làm ra loại chữ cực kỳ thông dụng và khoa học này.
Annam (An Nam), Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa/tức Thuận Hóa), Cacham, Cacciam (Ca Chàm/tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm), Unsai (ông sãi), Ungue, Ungué (ông nghè), Ontrũ (ông trùm), Oundelin (ông đề lĩnh), Banco, Bancô, Bancò (Bàn Cổ), Nuocman (Nước Mặn), Ainam (Hải Nam), Quanghia, Quamnguya (Quảng Nghĩa), Quignhin (Qui Nhơn), Bafu (Bà Phủ/tức vợ quan phủ)... - những địa danh, những danh từ Việt được Latin hóa tiên khởi ở những năm 1620-1621. Dễ nhận thấy là các từ luôn được viết liền, hầu hết không có dấu thanh, thi thoảng các dấu thanh huyền, sắc, ngã, ô được sử dụng.
Bìa cuốn Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong được viết năm 1621-1622 bằng tiếng Ý, trong đó có một số từ quốc ngữ được viết rời - Ảnh tư liệu
|
Bắt đầu viết rời các từ
Cũng ở những năm tháng xây nền đặt móng này, việc viết rời các từ đã lác đác xuất hiện. Sayc Kim (sách kinh), Sayc Chiu (sách chữ); Da, an, nua (đã ăn nửa), Da, an, het (đã ăn hết) - nói về hiện tượng nguyện thực; scin mocaij (xin một cái); Dàdèn, Lùt, Dàdèn Lùt (đã đến lụt), Tuijciam, Biet (tui/tôi chẳng biết), Onsaij di Lay (ông sãi đi lại/tức đi đi lại lại); Muon bau dau christiam chiam (muốn vào đạo Christiang chăng?) được giáo sĩ C. Borri viết trong bản tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong (1621-1622) đệ lên đức giáo hoàng Urbanô VII là những bước tiến quan trọng trong tạo lập chữ quốc ngữ, bởi đây là bước khởi đầu việc viết rời các từ.
Từ tiến bộ này, ở giai đoạn hai (1631-1648) trong các bản văn và sách của mình, giáo sĩ Đắc Lộ đã viết rời các từ và nhóm từ Việt, phần lớn vẫn chưa có dấu, nhưng thi thoảng ông lại cũng viết liền các từ về địa danh, nhân danh cũng như đánh dấu thanh cho một vài từ. Đáng nói là việc đưa các dấu thanh Hi Lạp (huyền, sắc, ngã) vào để tạo dần sự hoàn chỉnh âm vận cũng như thêm chữ “đ” vào bộ mẫu tự Latin cho quốc ngữ của giáo sĩ Gaspar d’Amaral (người Bồ Đào Nha).
Đàng tlaõ (Đàng Trong), Đàng ngoày (Đàng Ngoài), Đàng tlên (Đàng Trên), nhà thượng đày (nhà thượng đài), nhà huỵen (nhà huyện), oũ Khỏũ (ông Khổng/Khổng Tử), đức vương (đức vương), tế kỳ đạo (tế kỳ đạo), chuá tũ, chuá dũ, chuá quành (chúa Tung, chúa Dũng, chúa Quỳnh/tên các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài), Thíc ca (Thích Ca), chợ thũi (chợ Thủy), Sãy (sãi/sư sãi), thầy (thầy/thầy giảng), đôủ thành (Đông Thành/tên một tu sinh)... Một ít trong số những từ được linh mục Đỗ Quang Chính trích từ các tường trình về hoạt động truyền giáo ở Đàng Ngoài của giáo sĩ G. d’Amaral viết vào những năm 1632, 1637 cho thấy vị giáo sĩ này đã đưa việc chế tác chữ quốc ngữ tiến một bước rất dài chỉ trong thời gian rất ngắn.
Kỳ tới: Hai bức thư và tập lịch sử nước An Nam
HUỲNH VĂN MỸ
Ai có công đầu với chữ quốc ngữ?
20/04/2014
TT - Đây là vấn đề được đặt ra từ vài chục năm nay bởi một số nhà nghiên cứu cùng những người quan tâm đến lịch sử buổi đầu chữ quốc ngữ. Những ai đã tiên khởi mở ra việc tạo lập chữ quốc ngữ?
Giao sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) Ảnh tư liệu
|
Alexandre de Rhodes hay Francisco De Pina?
Với hai quyển sách Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - Latin (gọi tắt Tự điển Việt - Bồ - La) và Phép giảng tám ngày bằng quốc ngữ được tòa thánh La Mã cho xuất bản năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) từ lâu được coi là người có công lớn trong việc chế tác ra chữ quốc ngữ.
Để tưởng nhớ công lao của Đắc Lộ, năm 1941 một bia kỷ niệm khắc tên ông đã được dựng bên hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội; và ở Sài Gòn vào năm 1955 người ta đã lấy tên Alexandre de Rhodes đặt cho một con đường ngay trung tâm thành phố này, còn mãi đến nay.
Nhà nghiên cứu Võ Long Tê nhận xét: “Đành rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes không phải là người duy nhất đã sáng chế và làm cho chữ quốc ngữ trở nên hoàn hảo, nhưng lịch sử vẫn xem vị giáo sĩ này là thủy tổ chữ quốc ngữ vì đã có công thử thách chữ quốc ngữ trong các lĩnh vực soạn sách tự điển, văn phạm, giáo lý, và nhất là phổ biến rộng rãi chữ quốc ngữ bằng những tác phẩm ấn loát tại nhà in của Thánh bộ Truyền giáo tại La Mã”.
Đó là những quyển sách được coi là công cụ bước đầu trong việc phổ truyền việc dạy và học chữ Việt, mở ra sự xuất hiện chữ Việt trên bản đồ chữ viết của thế giới. Thủy tổ chữ quốc ngữ là cụm từ do nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm dành cho giáo sĩ Đắc Lộ, trong đó có một số luận chứng giống như tác giả Võ Long Tê đã trích dẫn.
Quan điểm cho rằng giáo sĩ Đắc Lộ là người có công đầu, có công nhiều nhất trong việc làm ra chữ quốc ngữ cũng đã được nhà nghiên cứu Hoàng Tiến nhắc lại trong đề tài nghiên cứu Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ 20 của mình được xuất bản năm 1994:
“...Và nhất là cha cố người Pháp Alexandre de Rhodes là một nhà bác học rất giỏi về khoa ngôn ngữ đã tới Việt Nam và giảng đạo bằng tiếng Việt. Tất nhiên việc này có công sức đóng góp của nhiều người, nhưng ông là đại diện và giữ công đầu”.
Tuy nhiên, mãi đến gần đây nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương đã phản bác quan điểm tồn tại lâu nay, ông cho rằng Đắc Lộ không phải là người có công đầu trong việc tạo tác chữ quốc ngữ.
Trong tham luận “Hội An - Thanh Chiêm và sự ra đời chữ quốc ngữ” tại tọa đàm khoa học “Danh xưng Quảng Nam” ở Tam Kỳ hồi tháng 9-2001, tác giả Nguyễn Phước Tương nhấn mạnh rằng Francisco de Pina mới là nhà tiên phong sáng tạo chữ quốc ngữ.
Luận cứ mang tính khẳng định của nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương trước hết dựa vào tự bạch của giáo sĩ Đắc Lộ trong “Lời nói đầu” ở Tự điển Việt - Bồ - La rằng ông học tiếng Việt lúc đầu với giáo sĩ F. de Pina, rằng ông đã sử dụng các công trình tự điển viết tay An Nam - Bồ, Bồ - An Nam của các giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa - những điều mà bất cứ ai tiếp cận Tự điển Việt - Bồ - La đều biết rõ.
Bên cạnh một số luận cứ khác nữa, đặc biệt, nhà nghiên cứu này còn dựa vào phát hiện mới về công trình chữ quốc ngữ của F. de Pina của nhà ngôn ngữ học Pháp Roland Jacques.
Đó là bức thư viết dở dài bảy trang cùng cuốn Nhập môn tiếng Đàng Ngoài dài 22 trang dạy cho người mới học tiếng Việt của giáo sĩ F. de Pina được R. Jacques tìm thấy ở Thư viện Quốc gia tại Lisbon (Bồ Đào Nha).
Từ những tư liệu mới tìm thấy này, R. Jacques đã viết chuyên luận Công trình của một số nhà tiên phong Bồ Đào Nha trong lĩnh vực ngôn ngữ học Việt Nam được ấn hành tại Paris năm 1995.
Tác giả này viết: “Qua sự so sánh có hệ thống việc mô tả bộ chữ cái Việt Nam thực hiện bởi văn bản này và văn bản kia, như vậy sẽ trở nên có thể nhận định được rõ ràng hơn rằng Alexandre de Rhodes đã chịu ơn các vị tiền bối của mình và ngược lại, có sự đóng góp tài năng của bản thân ông”.
Nhà in Làng Sông được thành lập năm 1872 tại huyện Tuy Phước, Bình Định - một trong những nhà in chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh: H.V.M.
|
Công lao tập thể và vai trò của người Việt
Trong khi đó, một quan điểm phổ quát hơn, từng được nhiều nhà nghiên cứu cùng chấp nhận hơn là: chữ quốc ngữ được hình thành bước đầu từ công lao của một số giáo sĩ dòng Tên.
Năm 1955, trong cuốn sách về Công trạng của nước Pháp ở Đông Dương của mình, tác giả Pháp Georges Taboulet cũng đã đưa luận điểm như trên khi ông viết: “Việc phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin điểm thêm các dấu quy ước, là một công lao tập thể mà sự đóng góp chủ yếu của các linh mục Francisco de Pina, Cristophoro Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, còn linh mục Alexandre de Rhodes thì có công hệ thống hóa, chỉnh lý và phổ biến văn tự này...”.
Tác giả Võ Long Tê cũng cho rằng: “...Căn cứ vào những sử liệu chắc chắn và những suy luận hợp lý, chúng ta có thể quyết đoán rằng công cuộc sáng chế chữ quốc ngữ là một công trình tập thể, nằm trong một khuôn khổ những nỗ lực phiên âm các thứ tiếng có chữ tượng hình ở Viễn Đông do các thừa sai châu Âu khởi xướng từ thế kỷ thứ 16”.
Cũng nhắm vào công lao tập thể trong việc tạo lập chữ quốc ngữ, linh mục Đỗ Quang Chính đã dùng từ “những ông tổ” để chỉ những giáo sĩ có công trong việc Latin hóa tiếng Việt buổi đầu.
Dẫu vậy, vị linh mục sớm đi vào nghiên cứu lịch sử chữ quốc ngữ này cho rằng “ai là người có công nhất trong việc sáng tác chữ quốc ngữ?” vẫn còn là điều thắc mắc cần được làm sáng tỏ.
Về đóng góp của người Việt, theo nhà nghiên cứu Võ Ngọc Liễn, có lẽ vì đặt nặng vai trò chủ động của các giáo sĩ dòng Tên trong việc tạo tác nên chữ Việt mới từ mẫu tự Latin do họ “mang tới” vốn hoàn toàn xa lạ với người Việt, các nhà nghiên cứu có phần chậm trễ khi nói đến vai trò của người Việt.
Trong một số tác phẩm được xuất bản từ những năm 1960-1970 của mình, các tác giả Đỗ Quang Chính, Võ Long Tê đều đã đề cập sự đóng góp của người Việt cho sự ra đời của chữ quốc ngữ.
Đó là những nho sĩ, những sư sãi, những tân tòng - người mới theo đạo (Công giáo) mà đặc biệt là những tân tòng trở thành thầy giảng (đạo).
Nhưng tiếc rằng đó đều là những đóng góp lặng thầm, chìm khuất, ít được các giáo sĩ thời đó nêu danh tính hay ghi lại cụ thể, ngoại trừ những ghi chép của các giáo sĩ F. de Pina, Đắc Lộ, C. Borri về công lao của người Việt trong việc bày vẽ cho họ học tiếng bản xứ.
“Các thầy giảng Igesico Văn Tín, Bentô Thiện với những tác phẩm quốc ngữ xuất sắc được lưu lại từ năm 1659, đương nhiên họ đã cùng với các vị giáo sĩ ở cư sở của mình cùng nhau miệt mài luyện tập chữ quốc ngữ cũng như học hỏi ngôn ngữ của nhau” - nhiều nhà nghiên cứu đã nói.
Và, ngoài tên tuổi của một ít các thầy giảng người Việt được nói đến, chắc chắn còn nhiều người Việt khác đã cộng tác đắc lực với các linh mục dòng Tên trong công cuộc kiến tạo chữ quốc ngữ buổi đầu.
Kỳ tới: Đâu là “chiếc nôi” chữ quốc ngữ?
HUỲNH VĂN MỸ - BẢO TRUNG
Alexandre de Rhodes không phải là “cha đẻ” chữ quốc ngữ?
25/08/2016
TTO - Tại hội thảo “Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ quốc ngữ” do UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức ngày 24-8 ở huyện Điện Bàn, nhiều ý kiến cho rằng giáo sĩ Francisco de Pina là người đặt nền tảng cho việc ra đời của chữ quốc ngữ.
“Nhiều ý kiến tham luận tại hội thảo không cho rằng giáo sĩ de Rhodes là “cha đẻ” của chữ quốc ngữ như quan điểm của nhiều học giả kỳ cựu trước đây
|
Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn
|
Hội thảo thu hút hàng trăm nhà khoa học, sử học, chuyên gia trên khắp cả nước tham dự.
Tại hội thảo, ông Lê Văn Thanh - phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam - cho biết những nghiên cứu của các nhà khoa học suốt gần 15 năm qua đã đưa ra những kết luận khoa học có giá trị về vai trò, công lao của Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha) và Alexandre de Rhodes (người Pháp) trong sáng tạo, hoàn thiện chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ 17.
Theo tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn - phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, hội thảo thu hút 69 tham luận là những nghiên cứu khoa học đầy tâm huyết, giàu sức thuyết phục.
Trong đó nhiều nghiên cứu khẳng định vai trò tiên phong của giáo sĩ Francisco de Pina trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ và giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công hoàn thiện chữ quốc ngữ thông qua việc tu chỉnh, biên soạn và xuất bản hai cuốn sách quan trọng là Từ điển Việt - Bồ - La và Phép giảng tám ngày vào năm 1651.
Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết có lẽ một thời gian rất dài chúng ta nhắc đến Alexandre de Rhodes có vai trò hết sức quan trọng trong sự đóng góp phát triển chữ quốc ngữ, và quan trọng là di cảo ông để lại.
Quả thật trong điều kiện tư liệu lúc đó, ông Rhodes là người đóng góp rất lớn. Nhưng sau này khi chúng ta có điều kiện nghiên cứu nhiều hơn, những công trình đã tiếp cận các nguồn tư liệu rất khó tiếp cận thì mới thấy được ông Francisco de Pina là người không những đi trước mà còn để lại nhiều dấu ấn, bằng chứng lịch sử để thấy ông là người sớm nhất, giỏi tiếng Việt nhất thời điểm ấy. Vì thế chúng ta tôn vinh một cách công bằng nhưng không phải vì thế mà hạ thấp người này, nâng cao người khác.
“Nhưng ngay chính trong sách ông Alexandre de Rhodes viết cũng nói rất rõ là viết từ điển dựa vào thành quả của những người đi trước. Điều đó cho thấy sự hình thành, phát triển chữ quốc ngữ có sự đóng góp của nhiều thế hệ, là cả một quá trình, từ chỗ ý tưởng đầu tiên đến thử nghiệm đầu tiên, rồi có cả một công trình đi vào đời sống” - ông Dương Trung Quốc nhấn mạnh.
Theo thông tin tại hội thảo, năm 1617 giáo sĩ Francisco de Pina được cử vào xứ Đàng Trong giúp đỡ Nhật kiều công giáo ở Hội An. Sau đó giáo sĩ chú tâm nghiên cứu, sáng tạo chữ quốc ngữ. Và tại Thanh Chiêm, nơi được Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chọn làm dinh trấn của Quảng Nam, đã ra đời trường dạy quốc ngữ đầu tiên.
|
LÊ TRUNG
0 nhận xét