Tin Biển Đông – 28/11/2019
Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019
15:50
//
Biển Đông
,
Slider
Nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia ven biển
theo luật pháp quốc tế
và thực trạng hợp tác nghề cá ở Biển Đông hiện nay
Tất cả các quốc gia ven Biển Đông đều là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), vì vậy, có nghĩa vụ thực hiện các quy định của Công ước, trong đó có các nghĩa vụ liên quan tới việc bảo tồn và phát triển các đàn cá theo UNCLOS. Trong bối cảnh, một số nước sử dụng lực lượng chấp pháp ngăn cản, xuôi đuổi, bắt giữ thậm chí là đâm chìm tàu cá của ngư dân đã thời gian qua đang cho thấy sự cần thiết phải thực thi luật pháp quốc tế.
Nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia ven biển trong hoạt động nghề cá quy định trong luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982
Hợp tác quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật biển, đặc biệt là các đàn cá là một nghĩa vụ quan trọng đối với các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Theo đó, các quốc gia phải trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức khu vực thoả thuận các biện pháp cần thiết để bảo đảm sự bảo tồn và phát triển của các đàn cá. Việc thành lập và tham gia các tổ chức nghề cá khu vực là một trong các cách hiệu quả để thực hiện nghĩa vụ này. Trong khi đó,Biển Đông với diện tích khoảng 3.8 triệu km2, bao gồm Vịnh Thái Lan và Vịnh Bắc Bộ cùng hơn 200 đảo lớn nhỏ. Bao quanh Biển Đông là 8 nước Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore, Campuchia và lãnh thổ Đài Loan. Tiềm năng nghề cá của khu vực biển này là rất lớn. Mặc
dù chỉ chiếm 2,5% bề mặt trái đất nhưng Biển Đông có khoảng 3365 loài cá biển, chiếm 12% tổng lượng cá đánh bắt toàn cầu. Trong những năm gần đây, sản lượng đánh bắt cá ở Biển Đông tăng đáng kể, đồng nghĩa với trữ lượng cá ở đây giảm mạnh. Việc đánh bắt trước đây tập trung chủ yếu ở vùng biển ven bờ, tại các vùng nước nông. Nhưng hiện nay tại những khu vực này lượng cá đã bị khai thác đủ, khai thác quá mức, chưa có khả năng tái đàn. Vì vậy, khai thác thủy sản ở những khu vực nước biển sâu ở Biển Đông đang được các nước khuyến khích phát triển.
Với tính chất là biển nửa kín, các quốc gia ven Biển Đông cần lưu ý tới Điều 123, quy định về sự hợp tác giữa các quốc gia ven biển kín, hoặc nửa kín. Mặc dù có một số tranh cãi và khác biệt trong cách giải thích câu đầu tiên của Điều 123: “các quốc gia ven biển kín hoặc biển nửa kín nên hợp tác với nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo Công ước”, theo đó một số học giả cho rằng hợp tác chỉ là một nghĩa vụ về mặt đạo đức và Công ước chỉ đưa ra như là một khuyến nghị cho các quốc gia ven biển kín hoặc nửa kín, nhưng phần đông các học giả và các quốc gia cho rằng Điều 123 đã đặt ra nghĩa vụ pháp lý cho các quốc gia, đặc biệt là khi câu thứ 2 của Điều 123 khẳng định rằng các quốc gia phải nỗ lực hợp tác trực tiếp hoặc thông qua tổ chức khu vực thích hợp để phối hợp quản lý, bảo tồn, khám phá và khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật biển, thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với việc bảo vệ môi trường biển, chính sách nghiên cứu khoa học và thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học biển chung… Bên cạnh đó, Điều 6 của Tuyên bố về Ứng xử của Các bên ở Biển Đông (DOC) cũng đã đặt ra trách nhiệm tiến hành các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia ven Biển Đông trong một số lĩnh vực, trong đó có việc bảo vệ môi trường biển. Mặc dù DOC chỉ được coi là một văn bản chính trị nhưng DOC có tầm quan trọng đặc biệt trong vấn đề Biển Đông giữa các nước quanh khu vực này bởi đây là văn kiện chung duy nhất giữa các quốc gia này quy định về cách hành xử của các bên trên Biển Đông.
Thực trạng việc hợp tác nghề cá giữa các nước ở Biển Đông hiện nay
Hợp tác của các quốc gia ven Biển Đông trong việc bảo tồn và quản lý các nguồn tài nguyên sinh vật biển chủ yếu mới chỉ diễn ra ở cấp độ song phương thông qua các hiệp định hợp tác nghề cá, ví dụ như Hiệp định Hợp tác Nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2000. Ngoài ra một số nước có đàm phàn song phương về hợp tác trong một số lĩnh vực khác như tìm kiếm cứu nạn trên biển, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường, ví dụ như đàm phán về các vấn đề ít nhạy cảm giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hợp tác theo điều 123 của Công ước tại khu vực này chưa thực sự được tiến hành. Tuy nhiên có thể kể đến nỗ lực của FAO khi thành lập Ủy ban Nghề cá châu Á – Thái Bình Dương (APFIC). Đây là một tổ chức nghề cá khu vực được thành lập năm 1948, có khu vực thẩm quyền rộng, bao gồm cả các nguồn tài nguyên nước nội địa và tài nguyên sinh vật biển trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Thành viên của tổ chức bao gồm cả một số nước ven Biển Đông là Trung Quốc, Malaysia, Philíppin và Việt Nam. Tuy nhiên, APFIC không có thẩm quyền quản lý các nguồn tài nguyên sinh vật biển ở Biển Đông mà chỉ là một cơ quan có chức năng tư vấn. Ngoài ra, đáng chú ý là Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC), được thành lập năm 1967 với chức năng phát triển và quản lý tiềm năng nghề cá trong khu vực bởi trừ Trung Quốc, tất cả các quốc gia ven Biển Đông còn lại đều là thành viên của SEAFDEC. Tuy nhiên, SEAFDEC không xác định khu vực có thẩm quyền về mặt địa lý và chỉ là một cơ quan chuyên về mặt kỹ thuật, không có chức năng quản lý. Bên cạnh đó, Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC) được thành lập bởi Công ước Bảo tồn và Quản lý các Đàn cá Di cư cao ở Tây và Trung Thái Bình Dương cũng nên được nhắc đến bởi về lý thuyết, WCPFC bao phủ cả Biển Đông nếu những đàn cá được quản lý và nhắm tới của Ủy ban di cư tới khu vực này. Ủy ban này chưa xác định được phần phía tây của khu vực công ước, nơi mà các biện pháp quản lý và bảo tồn “được áp dụng đối với các đàn cá hoặc những khu vực đặc biệt trong khu vực công ước được quyết định bởi Ủy ban”. Tuy nhiên WCPFC chỉ quản lý và bảo tồn những loài cá di cư cao chứ không phải tất cả các nguồn tài nguyên sinh vật biển.
Giải pháp cho vấn đề hợp tác nghề cá hiện nay ở Biển Đông
Thành lập một tổ chức quản lý nghề cá ở Biển Đông là một trong những hình thức hiệu quả thực hiện nghĩa vụ này của Công ước, đồng thời đáp ứng được nhu cầu quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên cá và sinh vật biển khác trong khu vực trước thực trạng khai thác quá mức đang diễn ra tại vùng biển này. Tuy nhiên, Biển Đông cũng là một trong những khu vực biển phức tạp bởi tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền giữa các quốc gia ven Biển Đông. Những tranh chấp này gây khó khăn cho các hoạt động khai thác cá của ngư dân một số nước. Nguyên nhân chính do các vùng biển của các quốc gia ven Biển Đông chưa được xác định rõ ràng do có sự chồng lấn chưa phân định các vùng biển, ví dụ như vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và
Campuchia hoặc do chính các quốc gia ven Biển Đông chưa đưa ra yêu sách rõ ràng về vùng biển của quốc gia mình. Trong giai đoạn này, Công ước quy định, các quốc gia phải có nghĩa vụ áp dụng các dàn xếp tạm thời trước khi có thể đi tới một giải pháp cuối cùng cho việc phân định các vùng biển. Một trong những hình thức của “dàn xếp tạm thời” là việc cùng hợp tác giữa các quốc gia. Các quốc gia trong tranh chấp Biển Đông có thể hợp tác theo nhiều hình thức khác nhau như tập trận chung, cùng phát triển các nguồn tài nguyên hydrocarbon, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển và hợp tác nghề cá. Cho đến nay việc hợp tác để bảo vệ và quản lý nghề cá giữa các quốc gia ven Biển Đông vẫn chưa được tiến hành. Các quốc gia ven Biển Đông có thể xem xét lĩnh vực này để tiến hành hợp tác nhằm đem lại sự hoà bình và thịnh vượng chung cho khu vực. Đồng thời có thể giúp giảm căng thẳng, tranh chấp trên biển, tạo lòng tin để mở đường cho những hợp tác, đàm phán những vấn đề nhạy cảm hơn.
Việt Nam-Trung Quốc
đàm phán về biên giới lãnh thổ
Từ ngày 26-28/11, tại Bắc Kinh, Trung Quốc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc La Chiếu Huy tiến hành cuộc gặp giữa hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Cổng thông tin Chính phủ hôm 28/11 loan tin: “Cuộc đàm phán để trao đổi về quan hệ song phương Việt Nam – Trung Quốc, vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước cũng như các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm,” nhưng không nêu chi tiết.
“Hai bên cũng đánh giá cao tình hình biên giới trên đất liền cơ bản ổn định; các cơ chế đàm phán, trao đổi về vấn đề trên biển tiếp tục được duy trì, một số lĩnh vực hợp tác trên biển đạt tiến triển,” báo VietnamPlus cho biết.
Cổng thông tin Chính phủ nói hai bên tiếp tục hỗ trợ, khuyến khích các địa phương tăng cường giao lưu, hợp tác cùng có lợi; tiến hành tổng kết 20 năm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền và 10 năm hoàn thành công tác phân giới cắm mốc toàn tuyến biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
“Hai bên đã trao đổi về vấn đề trên biển; nhất trí thực hiện nghiêm túc nhận thức chung cấp cao, kiểm soát và xử lý thoả đáng bất đồng, góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông,” trang Baochinhphu.vn cho biết thêm.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 27/11 cho biết trong dịp này, Thứ trưởng Lê Hoài Trung đã hội kiến Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị.
Bộ này trích lời ông Nghị “chúc mừng những kết quả tích cực của cuộc đàm phán giữa hai bên chính phủ về vấn đề biên giới,” nhưng cũng không nêu chi tiết.
Indonesia dùng “ngoại giao mềm”
chống TQ ở Biển Đông
Như một phần trong chính sách “ngoại giao mềm” về vấn đề Biển Đông, Indonesia đang xúc tiến đệ trình UNESCO công nhận quần đảo Natuna, thực thể đang tranh chấp với Trung Quốc trở thành một công viên địa chất toàn cầu.
Indonesia đang được Guam và Hawaii truyền cảm hứng để phát triển quần đảo Natuna trở thành một địa điểm du lịch địa chất quốc tế và củng cố hoạt động bảo vệ vùng lãnh thổ cực Bắc này trước những căng thẳng trên biển Đông.
Indonesia đang chuẩn bị hồ sơ đề cử lên UNESCO công nhận quần đảo Natuna thuộc tỉnh Riau Islands là một công viên địa chất toàn cầu, ông Siswo Pramono, người đứng đầu Cơ quan Phân tích và phát triển chính sách (PADA) thuộc Bộ Ngoại giao Indonesia, cho biết.
Những nỗ lực này được thực hiện theo Sáng kiến phát triển đảo bền vững (SIDI) – một chương trình được khởi động năm 2016 có sự tham gia của nhiều bên liên quan và là một phần của chính sách “ngoại giao mềm” của Indonesia về vấn đề Biển Đông.
“Bây giờ, quần đảo Natuna đã là một công viên địa chất quốc gia từ cuối năm 2018, công việc tiếp theo của chúng ta là mang nó đến UNESCO để được công nhận. Hy vọng rằng vào năm 2020 hoặc 2021, nơi này sẽ được công nhận là một công viên địa chất của UNESCO” – ông Siswo nói.
Trong khi đó, Indonesia cũng tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực này của đất nước. Từ cuối năm ngoái, nước này đã xây dựng trên đảo Natuna Besar một căn cứ quân sự với một tiểu đoàn bộ binh, một số đại đội hải quân cùng các quân nhân kỹ thuật.
Còn ở khu vực Dompak trên đảo Bintan, tỉnh Riau Islands, quân đội Indonesia (TNI) cũng bắt đầu xây dựng trụ sở cho Bộ tư lệnh Khu vực phòng thủ chung I (Kogabwilhan I) – đơn vị mới được thành lập, Tư lệnh Không quân Hadi Tjahjanto cho biết.
Kogabwilhan I có nhiệm vụ giám sát các đơn vị tác chiến hiện có của cả ba quân chủng hải quân, lục quân và không quân trong khu vực, bao gồm tiểu đoàn tác chiến hỗn hợp đang có trên quần đảo Natuna, để giải quyết các nguy cơ an ninh cụ thể và tăng cường khả năng phối hợp chỉ huy trong khu vực.
Để thống nhất với kế hoạch đệ trình công nhận Natuna trở thành công viên địa chất toàn cầu, Bộ Ngoại giao Indonesia đã phối hợp với TNI để điều chỉnh lại kế hoạch không gian phòng thủ Natuna.
Năm ngoái, một nhóm các chuyên gia đã được cử đến Guam và Hawaii để học hỏi kinh nghiệm về cách mà địa phương này “thành công trong tiến hành đồng thời các hoạt động kinh tế, du lịch và quân sự” – ông Dindin Wahyudin, Giám đốc đối ngoại đa phương của PADA, cho biết.
Nhóm chuyên gia kết luận rằng mô hình Guam có được áp dụng được ở quần đảo Natuna. “Trong trường hợp này, chúng tôi sẽ thảo luận với Bộ Quốc phòng về việc những cơ sở quân sự đang có sẽ hỗ trợ phát triển kinh tế và du lịch ở Natuna” – ông Dindin nói tiếp.
Việc được công nhận là một công viên địa chất toàn cầu có thể mở ra cánh cửa mới, rộng mở hơn và theo sau đó là một loạt các cơ hội, đặc biệt là về du lịch sinh thái. Theo bà Ina Krisnamurthi, chuyên gia tư vấn chính sách kinh tế, du lịch sinh thái sẽ “mang đến tác động đa dạng hơn cho cộng đồng địa phương”.
Tiềm năng kinh tế của quần đảo Natuna còn nằm ở việc nó có khả năng thu hút đầu tư vào lĩnh vực nhà nghỉ,… thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng như hệ thống xử lý nước thải, chất thải và các cầu cảng cho du thuyền, các tàu du lịch vừa và nhỏ, bà Ina nói thêm.
Trong đó, Nhật Bản đang thể hiện quan tâm đến cơ hội hợp tác phát triển du lịch, nghề cá và hạ tầng năng lượng ở vùng đảo cực Bắc này của Indonesia.
Ông Keiichi Ono, Phó Đại sứ Nhật Bản tại Indonesia, cho biết những hợp tác du lịch sẽ là một phần quan trọng trong chính sách của Nhật Bản vì “một Ấn Độ – Thái Bình Dương mở và tự do”, nhấn mạnh vị trí của Indonesia là cực kỳ quan trọng trong chính sách Ấn Độ – Thái Bình Dương của Tokyo.
Chuyên gia Evan Laksmana thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế (CSIS) cho biết “việc nâng cao vị thế của quần đảo Natuna trên toàn cầu sẽ củng cố các yêu sách chính đáng của Indonesia trong vùng đảo và vùng biển này” và có thể “gây ra nhiều khó khăn hơn đối với các nước muốn “xâm phạm” chủ quyền”.
Tuy nhiên, chuyên gia này cũng cho rằng kế hoạch sẽ “không thay đổi những tính toán bá quyền của Trung Quốc, cũng không thể ngay lập tức khiến Biển Đông hòa bình hơn”. “Do đó, dù cho kế hoạch không hề có vấn đề, đừng giả vờ như nó sẽ giúp chúng ta ổn định môi trường khu vực” – ông nói tiếp.
Từ lâu, tình hình Biển Đông đã trở nên phức tạp bởi các yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc, nổi bật là yêu sách đường chín đoạn, khiến Biển Đông ngày càng trở thành một điểm nóng về nguy cơ xung đột.
0 nhận xét