Tin Biển Đông – 05/09/2019
Thứ Năm, 5 tháng 9, 2019
17:33
//
Biển Đông
,
Slider
Liệu có ‘tứ giác kim cương’ ở Biển Đông?
Hôm 28-8, tàu khu trục Mỹ USS Wayne E. Meyer áp sát đá Chữ Thập và đá Vành Khăn, hai đảo nhân tạo lớn nhất được Trung Quốc tiến hành bồi đắp phi pháp ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên các hoạt động tự do hàng hải (FONOPS) của Mỹ thách thức cùng lúc hai thực thể bị Trung Quốc quân sự hóa.
Giữa bối cảnh Trung Quốc tỏ ra ngang ngược ở Biển Đông, Washington càng cho thấy thái độ phản đối rõ ràng đối với các hoạt động của Trung Quốc, đặc biệt là việc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam, được nêu rõ trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982.
Đợt FONOPS nêu trên được tiến hành hai ngày sau khi Lầu Năm Góc ra tuyên bố lên án việc Trung Quốc can thiệp vào các hoạt động khai thác dầu khí lâu đời của Việt Nam ở Biển Đông.
Mỹ cũng không phải nước duy nhất lên án hành động của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam, cũng như yêu cầu các nước liên quan ở Biển Đông phải tôn trọng UNCLOS. Từ lần đầu tiên tàu Hải Dương địa chất 8 của Trung Quốc tiến vào EEZ và thềm lục địa Việt Nam tháng 7 vừa qua, Nhật Bản và Úc cùng Mỹ lên án hành vi cản trở khai thác dầu khí ở Biển Đông.
Sức ép công luận quốc tế gia tăng lên Trung Quốc, những cái tên như Mỹ, Nhật, Úc xuất hiện dày hơn phần còn lại. Nó gợi lại những suy nghĩ về “tứ giác kim cương” Mỹ – Nhật – Ấn – Úc, được cho là bộ tứ an ninh để kiềm tỏa sức ảnh hưởng và các hành động ngày càng lộng hành của Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Tuy nhiên có nhiều lý do để thấy “tứ giác kim cương” ít nhất chưa thể được thúc đẩy vào lúc này.
Đầu tiên là sự cẩn trọng từ Ấn Độ dù New Delhi hôm 29-8 khẳng định ủng hộ tự do hàng hải, hàng không và thương mại hợp pháp trong các vùng biển quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982.
Nói như TS Satoru Nagao, nhà nghiên cứu tại Viện Hudson (Mỹ), Ấn Độ là chìa khóa, nhưng nước này có sự thay đổi trong bộ quốc phòng và cũng định hướng độc lập về chính sách đối ngoại, nên chưa thúc đẩy ý tưởng “tứ giác kim cương”.
Trao đổi cùng Tuổi Trẻ, ông Nagao cũng cho rằng Ấn Độ ở vị trí đặc biệt khi là thành viên duy nhất trong “bộ tứ” ấy chia sẻ biên giới đất liền với Trung Quốc, nên mọi ý tưởng tương tự đều cần được cân nhắc.
Câu chuyện về bức tranh an ninh ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng được ông Elbridge Colby, một chuyên gia Mỹ về an ninh, nói với các phóng viên trong một buổi chia sẻ riêng ở Hà Nội trong tháng 8. Từng là phó trợ lý bộ trưởng quốc phòng về chiến lược và phát triển lực lượng từ năm 2017 – 2018, ông Colby khẳng định Mỹ không muốn có một “NATO thứ hai” ở châu Á.
Trong buổi nói chuyện với phóng viên ở Hà Nội mới đây, ông Colby khẳng định Mỹ sẵn sàng hỗ trợ nhưng hoàn toàn tôn trọng quyết định của lãnh đạo Việt Nam.
Ông Colby gợi ý rằng Việt Nam có thể xem Nhật Bản như một mô hình trong việc đối diện các thách thức an ninh, đặc biệt vấn đề chủ quyền. Dù chắc chắn có nhiều khác biệt đặc thù, Việt Nam có thể làm theo cách của Nhật Bản trong việc thúc đẩy kinh tế, quân sự, tự cường, tự xây dựng năng lực quân đội – hàng hải.
“Điều đó không có nghĩa là chúng tôi kiến nghị tạo ra một liên minh. Chúng tôi muốn Việt Nam mạnh mẽ hơn, khi đó khả năng gây sức ép của Trung Quốc sẽ giảm, dù Bắc Kinh vẫn sẽ tiếp tục sử dụng quyền lực kinh tế và chính trị” – ông Colby nói.
Đây cũng là một ý tưởng phù hợp với chính sách tự chủ, chủ động của Việt Nam trong quan hệ ngoại giao và các vấn đề an ninh. Thời gian qua, Việt Nam đã liên tục thành công trong việc đưa câu chuyện Biển Đông và UNCLOS vào chương trình nghị sự tại gần như mọi khuôn khổ hợp tác song phương lẫn đa phương.
Sức ép ngoại giao đặt lên Trung Quốc đến thời điểm này là minh chứng cho thấy cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam nhận được sự tán thành của cộng đồng quốc tế.
Bộ Quốc phòng Mỹ: TQ “can thiệp
mang tính cưỡng ép” vào các hoạt động
khai thác dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông
Bộ Quốc phòng Mỹ hôm 28/6 tiếp tục chỉ trích rằng Trung Quốc đang “can thiệp mang tính cưỡng ép” vào các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông, đồng cảnh cảnh báo Bắc Kinh “sẽ không giành được niềm tin của các nước láng giềng cũng như sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế bằng cách duy trì những hành động dọa dẫm, bắt nạt”.
TQ vi phạm trật tự quốc tế, duy trì những hành động dọa dẫm, bắt nạt
Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết nước này “cực kỳ quan ngại” trước việc “Trung Quốc tiếp tục vi phạm trật tự quốc tế dựa trên luật pháp ở khắp khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương”. Mỹ cáo buộc Bắc Kinh vi phạm cam kết được Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Wei Fenghe đưa ra tại Đối thoại Shangri-La. Theo đó, Trung Quốc “hứa đi theo con đường phát triển hòa bình”. Lầu Năm Góc cáo buộc Trung Quốc “can thiệp mang tính cưỡng ép” vào các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông. “Những hành động dọa dẫm, bắt nạt” kiểu như vậy là vi phạm các quy định và tiêu chuẩn quốc tế.
Bộ Quốc phòng Mỹ thẳng thắn chỉ ra rằng Trung Quốc “đã nối lại các hoạt động can thiệp mang tính cưỡng ép vào các hoạt động khai thác dầu khí kéo dài lâu nay của Việt Nam ở Biển Đông, đi ngược lại hoàn toàn với cam kết của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa ở Đối thoại Shangri-La về việc Trung Quốc sẽ kiên quyết theo đuổi con đường phát triển hòa bình”.
Lầu Năm Góc cũng cho biết trong một tuyên bố được phát đi rằng, Bắc Kinh “sẽ không giành được niềm tin của các nước láng giềng cũng như sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế bằng cách duy trì những hành động dọa dẫm, bắt nạt”. Bộ Quốc phòng Mỹ còn nói thêm rằng, “các hành động dọa dẫm những nước ASEAN có tranh chấp, triển khai các hệ thống vũ khí tấn công ở Biển Đông và thực thi việc đòi hỏi chủ quyền bất hợp pháp ở khu vực đã khiến người ta nghi ngờ rất lớn về sự đáng tin của Trung Quốc”.
Hiện nay, Mỹ đang xem Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là một khu vực “tự do và mở” nơi tất cả các nước lớn và nhỏ đều được đảm bảo an ninh chủ quyền, không chịu sự cưỡng ép và có thể theo đuổi tăng trưởng kinh tế song song với tuân thủ các luật lệ và quy tắc đã được quốc tế thừa nhận, tuyên bố của Lầu Năm Góc đã nhấn mạnh như vậy. Những phát biểu mạnh mẽ trên được Mỹ đưa ra sau khi tình hình Biển Đông tiếp tục leo thang căng thẳng do việc Trung Quốc cho nhóm tàu Hải Dương 8 quay trở lại xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định theo các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).
Việt Nam luôn sẵn sàng giải quyết các bất đồng bằng mọi biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng hôm 22/8 cho biết: “Việt Nam đã nhiều lần giao thiệp với Trung Quốc về vấn đề này, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, không có những hành vi làm gia tăng căng thẳng, gây phức tạp tình hình, đe dọa hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông cũng như ở khu vực. Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục thực thi vào bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Với quyết tâm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đóng góp vào hòa bình, ổn định, an ninh khu vực và quốc tế, Việt Nam luôn sẵn sàng giải quyết các bất đồng bằng mọi biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”.
Đây không phải là lần đầu tiên Mỹ lên tiếng về hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, Trước đó, hôm 22/8, Mỹ cũng đã lên tiếng bày tỏ sự quan ngại sâu sắc trước những hành động gây hấn và can thiệp của Trung Quốc vào hoạt động dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông. Mỹ nói rằng, nước này cực kỳ quan ngại về việc Trung Quốc can thiệp vào các hoạt động dầu khí ở vùng biển của Việt Nam, nói rằng điều đó khiến Mỹ phải đặt câu hỏi về cam kết của Bắc Kinh đối với việc giải quyết hòa bình các tranh chấp hàng hải.
Một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ cho hay, việc Trung Quốc tái triển khai tàu khảo sát của chính phủ cùng với lực lượng quân sự hộ tống ở ngay vùng biển ngoài khơi Việt Nam từ hôm 13/8 là “một hành động leo thang của Bắc Kinh nhằm dọa dẫm không cho các nước khác phát triển tài nguyên trên
Biển Đông”. Trung Quốc đang gây quan ngại rất lớn cho cộng đồng quốc tế nói chung và các nước có lợi ích ở Biển Đông nói riêng khi liên tiếp có những động thái coi thường luật pháp quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của nước khác và gây hấn với các nước có tranh chấp trong khu vực.
Biển Đông :
Nghi vấn về các tàu Trung Quốc ở bãi Tư Chính
Theo tài khoản South China Sea News trên Twitter chuyên theo dõi tin tức Biển Đông, hôm nay 05/09/2019 lần đầu tiên các tàu hải cảnh Trung Quốc theo dõi được bằng tín hiệu AIS đều đã rời khỏi lô dầu 06.1 và bãi Tư Chính của Việt Nam. Trang này thận trọng cho biết cần phải quan sát tiếp.
Cách đây hai ngày, tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8) cùng với bốn tàu hải cảnh hộ tống đã rời bãi Tư Chính đến Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), nhưng tàu hải cảnh 46301 vẫn quanh quẩn gần lô 06.1. Đến sáng nay (theo giờ Việt Nam), tàu này đã rời đi, cũng hướng về Đá Chữ Thập, theo dữ liệu từ Marine Traffic.
Như vậy, với giả thiết tất cả các tàu Trung Quốc đều bật tín hiệu AIS để theo dõi, thì hôm nay không còn tàu hải cảnh nào ở bãi Tư Chính.
Các nhà quan sát đều thận trọng chưa thể khẳng định nhóm tàu Hải Dương Địa Chất 8 đã rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, vì trước đây chiếc tàu khảo sát đã từng rời đi ngày 7/9 và quay lại ngày 13/9, cho thấy việc đến Đá Chữ Thập có lẽ chỉ để tiếp tế nhiên liệu và lương thực.
Theo tài khoản Đại sự ký Biển Đông trên Facebook, các tàu cảnh sát biển Việt Nam hôm nay vẫn hiện diện khá nhiều ở khu vực gần Bãi Tư Chính. Ngoài hoạt động của giàn khoan Hakuryu-5 ở lô dầu 06.1 thì mới đây, Việt Nam cũng đã đặt chân đế giàn công nghệ trung tâm Sao Vàng ở mỏ dầu Sao Vàng – Đại Nguyệt nằm sâu trong bờ biển Việt Nam.
Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa, bị Trung Quốc chiếm vào đầu năm 1988 sau khi dùng bốn tàu chiến chặn các tàu công binh của Việt Nam tiến vào, và hiện nay Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền.
Về tàu cẩu khổng lồ Lam Kình (Lanjing) của Trung Quốc, một nguồn tin độc lập chưa được kiểm chứng cho biết hôm nay chiếc tàu này đã ra khỏi lãnh hải Việt Nam, hướng về Quảng Đông.
Malaysia – Việt Nam nhất trí thúc đẩy
hợp tác an ninh, hàng hải ở Biển Đông
Trong chuyến thăm Việt Nam (26-28/8), Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã trao đổi về nhiều vấn đề nhằm thúc đẩy quan hệ song phương, trong đó hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác an ninh, hàng hải ở Biển Đông.
Trong cuộc hội đàm Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao kết quả hợp tác ngày càng hiệu quả, thực chất trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, hợp tác pháp luật; nhất trí sớm thiết lập và triển khai các cơ chế quốc phòng song phương, trong đó có Ủy ban Cấp cao về hợp tác quốc phòng, tham vấn hải quân; thúc đẩy ký kết các văn kiện hợp tác như Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng mới. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, hai bên đã nhất trí tăng cường hợp tác toàn diện trên tất cả kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và giao lưu nhân dân giữa hai nước, tăng cường tin cậy chính trị, hợp tác thực chất và cùng có lợi. Hai bên đã trao đổi thư về thành lập Hội Hữu nghị nghị sĩ Việt Nam – Malaysia, đây là một bước tiến quan trọng tăng cường hợp tác chính trị nói chung cũng như hợp tác giữa hai Quốc hội. Về kim ngạch thương mại hai chiều của hai nước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho hay, hiện nay đã đạt con số 15 tỷ USD và Malaysia là đối tác thương mại lớn thứ 8 của Việt Nam. Hai bên sẽ phấn đấu nhanh chóng đạt con số 20 tỷ USD, đồng thời thúc đẩy đầu tư nhiều lĩnh vực mà hai bên là lợi thế của nhau, tạo điều kiện cho đầu tư thương mại phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới; nhất trí khuyến khích đầu tư các lĩnh vực về hạ tầng, năng lượng, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao, thuỷ sản, vận tải và logistics. Mặt khác, Chính phủ hai nước sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động tích cực tìm kiếm cơ hội hợp tác mới. Hai nước cũng đã nhất trí phối hợp nhằm ứng phó hiệu quả với biến động của tình hình quốc tế, những thách thức kinh tế vĩ mô về cải cách cơ cấu kinh tế; chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tiếp tục thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập quốc tế nhằm đưa kinh tế hai nước tiếp tục phát triển bền vững thời gian tới. Đồng thời, quyết tâm tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác về an ninh quốc phòng, hợp tác năng lượng, hợp tác biển và nghề cá, giáo dục, lao động và du lịch.
Ngoài ra, hai thủ tướng cũng đã trao đổi tin cậy về các vấn đề chiến lược, an ninh khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Thủ tướng Mahathir khẳng định Malaysia ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong vai trò chủ tịch ASEAN 2020 và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc 2020-202, sẽ phối hợp chặt chẽ với Việt Nam thúc đẩy phát triển Cộng đồng ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng, phát huy vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực; cùng phấn đấu vì một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và dựa trên luật lệ.
Về vấn đề Biển Đông, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc Hai thủ tướng chia sẻ quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây ở biển Đông, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982; tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý; không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không quân sự hóa, thực hiện đầy đủ và nghiêm túc Tuyên bố DOC và phấn đấu sớm đạt được COC thực chất, hiệu quả và ràng buộc pháp lý. Về hợp tác trên biển, hai thủ tướng cho rằng đây là lĩnh vực có liên quan đến an ninh, chủ quyền và phát triển của cả hai nước; cần tiếp tục mở rộng, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng chiến lược kinh tế, khoa học, năng lượng biển. Hai thủ tướng hoan nghênh hai bên đã thống nhất nội dung, tiến tới sớm ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác thực thi pháp luật và tìm kiếm cứu nạn trên biển, đồng thời tăng cường phối hợp giải quyết vấn đề ngư dân, tàu cá bị bắt trên tinh thần nhân đạo và quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai nước cũng như luật pháp quốc tế. Hai thủ tướng nhất trí với tư cách hai nước láng giềng thân thiết ven Biển Đông, có an ninh và lợi ích gắn kết, Việt Nam và Malaysia sẽ hợp tác chặt chẽ cùng ASEAN bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Ngoài ra, Thủ tướng hai nước cũng đã nhất trí khuyến khích Công ty Dầu khí quốc gia Malaysia (Petronas) và PetroVietnam mở rộng hợp tác thăm dò, khai thác, cung cấp dịch vụ dầu khí; có cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho ngư dân hai nước hoạt động đánh bắt cá hợp pháp, an toàn và bền vững.
Trả lời phỏng vấn báo chí sau cuộc hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad cho rằng hai nước đang được hưởng lợi ích từ mối quan hệ Đối tác chiến lược. Từ một đất nước không quá cởi mở, Việt Nam ngày nay đã mở cửa chào đón đầu tư nước ngoài và Maylaysia đã nhận thấy rõ những cơ hội này. Đáng chú ý, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad cho biết, “những diễn biến trên Biển Đông ảnh hưởng tới cả hai quốc gia vì Biển Đông là một phần vùng biển của chúng ta, nên các hoạt động của tàu thuyền trên Biển Đông rất quan trọng với cả Malaysia và Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần phải đảm bảo tự do trên vùng biển này. Chúng ta nên tránh bất kỳ xung đột nào với các quốc gia khác. Nếu có xung đột, chúng ta cần ngồi lại với nhau, thảo luận và giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình. Nếu không giải quyết được, chúng ta cần tới sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Vùng biển này khá phức tạp vì liên quan tới nhiều quốc gia. Tôi hy vọng vùng biển này sẽ luôn được đảm bảo tự do hàng hải”.
Được biết, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973 đến nay, quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam và Malaysia đã trải qua hơn 45 năm gắn bó và không ngừng phát triển. Việc nâng tầm quan hệ hai nước lên Đối tác chiến lược vào năm 2015 là dấu mốc quan trọng, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc trong quan hệ hai nước và tạo khuôn khổ chính trị và pháp lý cho việc thúc đẩy mạnh mẽ sự hợp tác trên tất cả các lĩnh vực chính trị – ngoại giao, quốc phòng – an ninh, kinh tế – thương mại, văn hóa – giáo dục. Về chính trị, ngoại giao, hai bên duy trì trao đổi đoàn cấp cao và các cơ chế hợp tác song phương, về quốc phòng và an ninh, hai nước duy trì trao đổi đoàn các cấp và giao lưu, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm giữa các quân, binh chủng. Bên cạnh đó, hai bên liên tục cử tàu hải quân thăm lẫn nhau. Hai bên cũng tăng cường trao đổi thông tin liên quan đến công tác phòng, chống khủng bố, tội phạm mạng, tội phạm xuyên quốc gia. Về kinh tế, Malaysia là đối tác thương mại lớn thứ 6 trong tổng số các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam, với kim ngạch thương mại hai chiều năm 2018 đạt 11,5 tỷ USD (theo số liệu thống kê của Malaysia là 13,2 tỷ USD) và đang đi đúng hướng tới mục tiêu 15 tỷ USD hoặc cao hơn vào năm 2020. Tính đến tháng 4/2019, tổng số vốn đăng ký đầu tư Malaysia vào Việt Nam đạt gần 13 tỷ USD, với gần 600 dự án đầu tư, đứng thứ 8/130 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Các doanh nghiệp Malaysia ngày càng tham gia đầu tư nhiều và
hiệu quả tại Việt Nam trong các lĩnh vực hạ tầng chất lượng cao, năng lượng, công nghệ cao và đô thị thông minh… Về vấn đề Biển Đông, hai bên cũng đã phối hợp chặt chẽ, cùng các nước ASEAN khác giữ vững đoàn kết và tiếng nói chung, bảo đảm hòa bình, an ninh, ổn định ở Biển Đông; thúc đẩy thực hiện DOC, xây dựng COC hiệu quả, thực chất và toàn diện.
Tổng Thư ký ASEAN: ASEAN sẽ thúc đẩy
để các bên giải quyết tranh chấp trên biển
bằng các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế
Phát biểu trong chuyến thăm Việt Nam, Tổng Thư ký ASEAN Lim Jock Hoi (27/8) cho biết, Ban Thư ký ASEAN sẽ nỗ lực hết sức mình thúc đẩy để bảo đảm các bên giải quyết các tranh chấp trên biển bằng các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982; tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý; không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không quân sự hóa, thực hiện đầy đủ và nghiêm túc Tuyên bố DOC và phấn đấu sớm đạt được COC thực chất, hiệu quả và ràng buộc pháp lý.
Trong buổi tiếp Tổng Thư ký ASEAN, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh Việt Nam luôn coi ASEAN là một trong những trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại; rất coi trọng nhiệm vụ Chủ tịch ASEAN 2020 và đã tích cực tiến hành các công tác chuẩn bị; đánh giá cao nỗ lực và đóng góp của cá nhân Tổng Thư ký đối với ASEAN kể từ khi ông nhậm chức. Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, ASEAN đang bước vào giai đoạn phát triển quan trọng, ở điểm giữa của chặng đường thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 và ASEAN đã phát huy được vai trò trung tâm trong suốt thời gian qua. Với việc năm 2020 Việt Nam sẽ đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN, Thủ tướng cho rằng, chuyến thăm này của Tổng Thư ký góp phần ủng hộ Việt Nam chuẩn bị tốt cho thực hiện trọng trách này. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, trong thời điểm hiện nay, cạnh tranh các nước lớn hết sức gay gắt, nên ASEAN cần luôn duy trì được vai trò trung tâm, đoàn kết nội khối. Theo đó, vai trò của Tổng Thư ký ASEAN là rất quan trọng trong tăng cường kết nối. ASEAN cần phát huy tốt vai trò người trung gian thực tâm, điều hòa, cân bằng quan hệ với các đối tác, nhất là các nước lớn. Bên cạnh đó, môi trường chiến lược khu vực và quốc tế biến động phức tạp, các vấn đề xuyên quốc gia gia tăng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi ASEAN phải không ngừng vươn lên bằng năng lực nội sinh mạnh mẽ để có thể thích ứng hiệu quả với những cơ hội và thách thức đặt ra. ASEAN cần tăng cường hơn nữa đoàn kết nội khối, tập trung tăng cường trao đổi thương mại mạnh mẽ hơn nữa. Muốn làm được điều đó thì cần nâng cao chất lượng phát triển của các nước ASEAN, tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đề nghị ASEAN tiếp tục có tiếng nói bày tỏ quan điểm ủng hộ việc duy trì hoà bình, ổn định, phát triển thịnh vượng, bảo đảm tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông trên tinh thần thượng tôn pháp luật quốc tế.
Tổng Thư ký ASEAN Lim Jock Hoi bày tỏ ấn tượng với sự chuẩn bị của Việt Nam để đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN vào năm tới cũng như ấn tượng về những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thời gian qua; cho rằng năm 2020 tới có ý nghĩa rất quan trọng với ASEAN vì là thời điểm giữa kỳ, cần rà soát các kế hoạch tổng thể của ASEAN. Do đó Ban Thư ký ASEAN cam kết hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, qua đó góp phần tăng cường đoàn kết nội khối, tăng cường quan hệ với các đối tác cũng như như ứng phó với các thách thức, biến động ở khu vực và thế giới. Tổng Thư ký Lim Jock Hoi cũng nhất trí về vấn đề biến đổi khí hậu, ASEAN cần phối hợp chặt chẽ để có giải pháp ứng phó hiệu quả, trong đó hợp tác chặt chẽ với Việt Nam về vấn đề này cũng như đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực, thích nghi trong thời đại mới. Ông cam kết sẽ nỗ lực hết sức mình để giữ đoàn kết trong ASEAN, giải quyết tốt các vấn đề phức tạp, nhạy cảm đang đặt ra. Liên quan vấn đề Biển Đông, Tổng thư ký ASEAN cũng nhấn mạnh, Ban Thư ký ASEAN sẽ nỗ lực hết sức mình thúc đẩy để bảo đảm các bên giải quyết các tranh chấp trên biển bằng các biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, UNCLOS; tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý; không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không quân
sự hóa, thực hiện đầy đủ và nghiêm túc Tuyên bố DOC và phấn đấu sớm đạt được COC thực chất, hiệu quả và ràng buộc pháp lý.
Được biết, Biển Đông nằm trong phạm vi địa chính trị của ASEAN và ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của các thành viên của Khối. Nó không chỉ là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị thế địa chiến lược quan trọng mà còn có những tuyến hàng hải thương mại đông đúc nhất thế giới, được bao quanh phần lớn là bởi các nước Đông Nam Á. Các tuyến thông thương hàng hải (SLOC) không chỉ đóng vai trò sống còn đối với nền kinh tế thế giới, mà còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của tất cả thành viên ASEAN. Nguồn hải sản dồi dào của Biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh lương thực của hàng trăm triệu người dân trong khu vực. Tất cả các thành viên ASEAN mong muốn củng cố quan hệ tốt đẹp với ASEAN và mong muốn thấy được mối quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ. Vì vậy, hòa bình và ổn định ở Biển Đông có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, an ninh và ổn định của khu vực nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Từ những năm đầu mới thành lập, ASEAN đã đặc biệt coi trọng vai trò và vị thế của Biển Đông; chủ động tham gia vào việc thúc đẩy một giải pháp hòa bình và hợp tác cho tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Không những vậy, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông liên quan trực tiếp đến 4 nước ASEAN và tất cả các nước ASEAN đều có lợi ích thiết thực, mang tính sống còn đối với khu vực này. Tất cả các nước có yêu sách ở Đông Nam Á muốn ASEAN đóng vai trò lớn hơn trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục tìm cách chia rẽ ASEAN trong vấn đề Biển Đông để đạt được âm mưu của mình. Theo đó, Trung Quốc thường sử dụng sức mạnh kinh tế và các khoản viện trở, đầu tư thương mại để mua chuộc, ép buộc một số nước phải nghe theo Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Ngân hàng xây dựng Trung Quốc – CCB (25/4) đã ký với Cơ quan Phát triển doanh nghiệp quốc tế Singapore bản ghi nhớ giữa CCB với các quốc gia ASEAN. Theo đó, CCB sẽ cung cấp 30 tỉ SGD (22,2 tỉ USD) cho các công ty hai nước thực hiện những dự án hạ tầng trong chiến lược “Một vành đai, Một con đường” nhằm tạo ảnh hưởng bao trùm khu vực rộng lớn từ Trung, Nam Á đến tận châu Âu của Trung Quốc. Trung Quốc cũng tăng cường đầu tư vào các nước, nhất là Campuchia. Theo con số chính thức được công bố, riêng trong năm ngoái, đầu tư của Trung Quốc vào Campuchia lên tới con số 1,9 tỉ USD, cao gấp hai lần tổng đầu tư của các nước ASAEN và 10 lần so với đầu tư của Mỹ vào Campuchia. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tích cực đẩy mạnh quan hệ hợp tác song phương nhiều mặt với các nước ASEA không có tranh chấp Biển Đông. Hiện nay Trung Quôc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN và các nước ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc. Theo Báo cáo của Hội đồng thương mại Trung Quốc – ASEAN, kim ngạch thương mại hai chiều giữa ASEAN và Trung Quốc trong năm 2014 đạt mức 480 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm 2013. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc, sau Liên minh châu Âu và Mỹ, chiếm hơn 11% tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc. Trung Quốc còn đe dọa các nước ASEAN sẽ phải gành chịu “hậu quả nghiêm trọng” nếu có hành động chống lại Trung Quốc. Phát biểu tại Đối thoại thường niên giữa quan chức ngoại giao cấp cao ASEAN (SOM) – Trung Quốc ở Singapore, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân (28/4) cảnh báo, ASEAN ra tuyên bố chung về vụ kiện của Philippines với Trung Quốc là một “bước đi liều lĩnh”, khẳng định đây là động thái của các cường quốc bên ngoài (ám chỉ Mỹ và Nhật Bản) nhằm chống lại Trung Quốc và các nước “không nên đánh đổi quan hệ Trung Quốc – ASEAN lấy mối quan hệ với cường quốc bên ngoài”. Bắc Kinh cũng tích cực sử dụng công cụ truyền thông đại chúng tích cực đưa tin, tuyên truyền về quan hệ tốt đẹp giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, cho rằng một số nước ASEAN đã ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, đặc biệt là trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài Liên hợp quốc. Ngoài ra, Trung Quốc đang tìm cách tiếp cận, phân hóa dần dần từng nước ASEAN. Malaysia (2015) dự định không đưa vấn đề Biển Đông vào Tuyên bố chung trong Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN, song do sức ép của Mỹ và Nhật Bản buộc Malaysia phải thay đổi quyết định. Thái Lan trong thời gian gần đây đã xa lánh phương tây, tăng cường các mối quan hệ quân sự với Trung Quốc, nhất là kể từ khi quân đội Thái Lan lên nắm quyền hồi năm ngoái. Thủ tướng Campuchia nhiều lần công khai ủng hộ lập trường của Trung Quốc cho rằng tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông không thể được giải quyết thông qua ASEAN mà cần phải giải quyết thông qua đàm phán song phương trực tiếp giữa Trung Quốc với từng nước tranh chấp.
Để đảm bảo ASEAN thống nhất lập trường, trở thành một khối đoàn kết, tự bảo vệ lợi ích của mình thì các nước ASEAN cần phải tăng cường hội nhập thông qua thúc đẩy các thể chế ASEAN và kết nối kinh tế như một cách nâng cao tính trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực. Để giữ cho Hiệp hội là động lực chính trong các vấn đề khu vực, hội nhập ASEAN phải được tăng tốc và sâu sắc hơn
nữa. Về mặt này, các quốc gia thành viên có thể cần phải mở rộng biên giới cho hội nhập ASEAN liên quan đến chủ quyền. Về mặt kinh tế, các chính phủ có thể tăng cường kết nối khu vực thông qua quy chuẩn hóa và hài hòa hóa các công cụ kinh tế vĩ mô, bao gồm quy định, luật pháp, thủ tục hành chính. Không những vậy, ASEAN phải chủ động trong việc tham gia vào vấn đề Biển Đông. Lập trường của ASEAN về vấn đề Biển Đông đến nay vẫn còn khá mơ hồ, thụ động, và mang tính phản ứng. Trong khi an ninh và ổn định ở Biển Đông là tối quan trọng đối với Đông Nam Á và với ASEAN, với tư cách là một thực thể, tổ chức đã không dẫn đầu như một thể thống nhất độc lập để đối phó với căng thẳng. Các hoạt động quyết đoán hơn chỉ được thực hiện dưới áp lực của hai thành viên có nhiều ảnh hưởng nhất, là Việt Nam và Philippin khi tình hình đạt đến cấp độ sống còn. Ngoài ra, một vấn đề vô cùng quan trọng, đó là ASEAN cần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Khối, tìm cách thúc đẩy đàm phán, sớm thông qua COC – thực chất, ràng buộc pháp lý với TQ.
Tập trận hải quân Mỹ – ASEAN: Washington
nhấn mạnh đảm bảo Ấn Độ Dương –
Thái Bình Dương tự do và rộng mở
Mỹ sẵn sàng sát cánh với tất cả các quốc gia có chung sự tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế nhằm đảm bảo một Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
Phát biểu tại buổi lễ khai mạc cuộc tập trận hải quân ASEAN – Mỹ tại căn cứ hải quân Sattahip ở miền đông Thái Lan hôm 4/9, Chuẩn đô đốc Kenneth Whitesell một lần nữa nhấn mạnh cam kết của Washington đối với một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
Đại diễn Mỹ nhấn mạnh rằng một cuộc tập trận đa phương thể hiện cam kết của Mỹ đối với Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở mà Washington đang thúc đẩy để chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở châu Á, trong đó bao gồm cả các yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Trung Quốc tuyên bố quyền sở hữu của mình đối với hầu hết các khu vực chiến lược quan trọng. Bắc Kinh đã khẳng định yêu sách của mình bằng cách cho bồi đắp phi pháp 7 hòn đảo nhân tạo và trang bị tại đó hệ thống đường băng quân sự, hệ thống phòng thủ tên lửa và tiền đồn.
Mỹ đã và đang bảo vệ mối quan hệ với các đồng minh, đồng thời cố gắng duy trì sức mạnh quân sự ở Thái Bình Dương như là một cách để cạnh tranh với Trung Quốc.
Cuộc tập trận hải quân chung giữa Mỹ và ASEAN, lần đầu tiên được đề xuất vào năm 2017, có sự tham gia của 8 tàu chiến, 4 máy bay từ 7 trong số 10 quốc gia của ASEAN, cùng hơn 1 nghìn quân nhân. Bên cạnh các bài tập thực hành tìm kiếm cứu nạn, cuộc tập trận lần này sẽ tập trung vào việc đối phó các vấn đề thách thức an ninh hàng hải trong khu vực.
“Chúng ta là một nhóm liên kết mạnh mẽ gồm các đồng minh và đối tác, cùng nhau hợp tác hướng tới an ninh và sự ổn định bền vững của một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, – ông Whitesell phát biểu.
Với cáo buộc Trung Quốc có hành vi bắt nạt, Mỹ mới đây đã đưa một tàu sân bay tới khu vực Biển Đông.
“Tôi cam kết rằng chúng tôi sẽ kề vai sát cánh với tất cả các quốc gia có chung sự tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, cũng như tầm nhìn về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” – Chuẩn đô đốc Whitesell khẳng định.
Cuộc tập trận lần này diễn ra chưa đầy một năm sau khi hải quân Trung Quốc tổ chức một sáng kiến tương tự ở ngoài khơi tỉnh Quảng Đông.
0 nhận xét