Tin Biển Đông – 06/08/2019
Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019
18:31
//
Biển Đông
,
Slider
Biển Đông: Tàu sân bay Mỹ tuần tra
vào lúc Bắc Kinh loan báo tập trận
Trung Quốc loan báo sẽ tập trận trong hai ngày hôm nay và ngày mai, 06 và 07/08/2019, tại khu vực quần đảo Hoàng Sa, mà Việt Nam đòi chủ quyền. Cho đến nay, chưa có thêm thông tin gì cụ thể về các hoạt động tập trận của Trung Quốc, nhưng một hàng không mẫu hạm Mỹ đã có mặt tại Biển Đông để thực hiện tuần tra bảo vệ tự do hàng hải.
Theo báo Nhật Japan Times, tầu sân bay Hoa Kỳ USS Ronald Reagan đã có mặt tại Biển Đông từ ngày hôm qua, và đang trong cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải như lệ thường. Bộ Quốc Phòng Mỹ đưa lên mạng nhiều bức ảnh cho thấy các hoạt động của con tàu. Tàu USS Ronald Reagan, neo đậu tại
căn cứ Yokosuka, tỉnh Kanagawa, Nhật Bản, thường xuyên tiến hành tuần tra ở Biển Đông trong thời gian gần đây.
Hoa Kỳ và Nhật Bản không đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông, nhưng có lập trường kiên quyết bảo vệ một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương « rộng mở và tự do ». Washington thường xuyên lên án các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc tại vùng biển này, sử dụng căn cứ quân sự trên các đảo ở Trường Sa và Hoàng Sa đe dọa an ninh khu vực cũng như tuyến đường hàng hải huyết mạch của thế giới.
Hôm qua, Cơ quan an toàn hàng hải Trung Quốc chỉ ra hai thông báo cấm tàu thuyền qua lại tại một địa điểm gần quần đảo Hoàng Sa, nhưng không cho biết thêm chi tiết. Hiện tại chưa biết tập trận của Trung Quốc đã bắt đầu hay chưa. Trong Sách trắng về Quốc phòng công bố hồi tháng trước, lần đầu tiên sau nhiều năm gián đoạn, chính quyền Bắc Kinh nhấn mạnh đến việc quân đội « sẵn sàng chiến đầu và diễn tập trong các điều kiện tác chiến thật » để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh có thể xảy ra tại vùng Tây Thái Bình Dương và Biển Đông.
Biểu tình phản đối trước cửa sứ quán Trung Quốc
Hôm nay, một nhóm khoảng 10 người biểu tình trước sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội. Những người biểu tình mang áo mang biểu tượng « No-U » (biểu tượng chống lại yêu sách đường lưỡi bò hay hình chữ U của Trung Quốc tại Biển Đông). Những người biểu tình lên án việc tàu Trung Quốc quấy rối hoạt động dầu khí của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế, gần quần đảo Trường Sa. Nhóm biểu tình ngay lập tức bị công an giải tán.
Trả lời phỏng vấn Reuters, một người biểu tình cho biết anh « thực sự hy vọng Việt Nam khởi kiện Trung Quốc lên tòa án quốc tế, do các hành vi gây hấn và đường lưỡi bò bất hợp pháp ».
Biển Đông: ‘Quá rụt rè trong việc kiện TQ,
VN đang mất lợi thế’
Dương Danh HuyGửi tới BBC News Tiếng Việt từ Anh Quốc
Tác giả cảm ơn Thái Văn Cầu, Nguyễn Lương Hải Khôi, Phan Văn Song, Dự Văn Toán và Lê Vĩnh Trương đã góp ý cho nội dung bài viết.
“Tránh sao khỏi tai họa về sau”
Từ tháng 5/2019 đến tháng 8/2019, với một sự leo thang lấn lướt kép, Trung Quốc vừa điều tàu cảnh sát biển Hải Cảnh 35111 uy hiếp các tàu tiếp tế giàn khoan hoạt động tại mỏ Lan Đỏ trong Lô 06-01, vừa điều tàu Hải Dương Địa Chất 8, với một đội tàu hộ tống hùng hậu đến khảo sát các lô 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156 và 157 trên một diện tích 31.000 km² trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) không cho phép đơn phương khảo sát tài nguyên hay nghiên cứu khoa học biển trong EEZ của nước khác.
Việc báo chí nhấn mạnh tên “Bãi Tư Chính” đã không thể hiện hết mức độ của sự xâm lấn mới này. Thật ra, mỏ Lan Đỏ nằm trong bồn Nam Côn Sơn, gần bờ hơn Bãi Tư Chính, cạnh mỏ Lan Tây, vốn là nguồn cung cấp 30% khí đốt của Việt Nam từ năm 2003. Và thật ra sáu trong tám lô bị đội tàu Hải Dương Địa Chất 8 vi phạm, các lô 130, 131, 132, 154, 155 và 156 đều nằm phía bắc Bãi Tư Chính, với lô 130 chỉ cách đất liền Việt Nam khoảng 80 hải lý và đảo Phú Quý khoảng 37 hải lý.
Năm 2017 và 2018 Trung Quốc đã gây áp lực khiến Việt Nam phải ngưng Repsol hoạt động trong các lô 07-03 và 136-03 gần đó, và năm 2012, để trả đũa việc Việt Nam ban hành luật biển, Trung Quốc đã rao thầu cho 160.000 km² trong EEZ của Việt Nam, trong đó có các lô 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156 và 157, mà họ gọi là RJ03 và RJ27. Dĩ nhiên động thái mới của Trung Quốc là những bước tiến trong một quá trình có chủ đích và sẽ không phải là những bước cuối cùng.
Ngày xưa, Trần Hưng Đạo thấy “sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ; ỷmệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau“, làm ông “thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn
gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.“
Ngày nay, Việt Nam lại đứng trước tình trạng “hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau” và Bắc Kinh lại uốn tấc lưỡi bảo Việt Nam phải “ứng xử cho đúng”, “tôn trọng chủ quyền Trung Quốc” và “đừng làm phức tạp tình hình”.
Chúng ta không sánh được với người hùng anh xưa, nhưng may mắn được sống trong một thế giới có những biện pháp hòa bình để bảo vệ quyền lợi của đất nước. Nếu bỏ phí cả những biện pháp đó thì “chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc… há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?“
Cơ chế giải quyết tranh chấp UNCLOS
Bài viết này sẽ cố gắng, qua các câu hỏi và trả lời, cung cấp thông tin về một trong những biện pháp văn minh nhất, bình đẳng nhất, với nó chí nhân có thể thay cường bạo như Nguyễn Trãi đã viết. Đó là kiện Trung Quốc.
1. Kiện Trung Quốc về điều gì?
Việt Nam cần kiện Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
2. Nếu Trung Quốc không chấp nhận ra tòa?
UNCLOS, trong Phần XV và các Phụ lục liên quan, quy định về một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc cho các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. Cơ chế này cho phép các thành viên kiện nhau về các tranh chấp liên quan đến việc diễn giải và áp dụng Công Ước, trong đó có tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Với cơ chế này, dù Trung Quốc không chấp nhận ra tòa cũng không ngăn cản được vụ kiện. Trung Quốc cố ý không giải quyết tranh chấp một cách công bằng, và mục đích của cơ chế này chính là để cho các thành viên UNCLOS có thể thoát khỏi những sự cố ý tồi tệ như thế.
Tuy cơ chế này cần hội tụ đủ một số điều kiện và có một số hạn chế, thí dụ như trong Điều 297 và 298, việc vụ kiện Phi-Trung 2013-2016 được thụ lý cho thấy khả năng là nếu Việt Nam kiện và Trung Quốc không chấp nhận ra tòa thì tòa cũng sẽ thụ lý.
3. Sao không kiện Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa?
Bản chất của tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa là tranh chấp chủ quyền, không phải là diễn giải và áp dụng UNCLOS.
Cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS không bao gồm những tranh chấp mà bản chất là tranh chấp chủ quyền. Tòa án Công lý Quốc tế cũng không có thẩm quyền để xử tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa cho đến khi mọi bên trong tranh chấp đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa bằng một trong những hình thức trong Điều 36 và 37 của Quy chế của Tòa, và hiện nay điều kiện đó chưa được đáp ứng.
4. Tòa nào sẽ xử?
Điều 287 của UNCLOS cho phép các bên trong tranh chấp tuyên bố chọn phương tiện phân xử, thí dụ như Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển (ITLOS), nhưng phương cách mặc định là một Hội đồng Trọng tài (HĐTT) lâm-cấp thời (ad hoc) được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS.
Hội đồng bao gồm năm trọng tài: mỗi bên được chọn một và các bên cùng nhau chọn số còn lại. Nếu không đủ năm trọng tài vì các bên không đồng ý với nhau, hay có bên không chọn, thì Chủ tịch Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển sẽ chọn. Chính một HĐTT như thế đã phân xử vụ kiện Phi-Trung Philippines chọn một trọng tài, nhưng Trung Quốc không tham gia, và Chủ tịch ITLOS Shunji Yanai chọn bốn trọng tài còn lại.
5. Hội đồng Trọng tài không phải là Tòa án Công lý Quốc tế, phán quyết của họ có ý nghĩa gì không?
Phán quyết của HĐTT được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS hoàn toàn có tính ràng buộc giữa các quốc gia trong vụ kiện, đối với các quốc gia này thì không khác gì Tòa án Công lý Quốc tế đã xử. Thí dụ, phán quyết 2016 có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc, dù Trung Quốc không công nhận.
Tuy nhiên, phán quyết đó không có tính ràng buộc giữa các quốc gia đó và các bên thứ ba.
6. Phán quyết 2016 đã bác bỏ Đường Chữ U rồi, kiện nữa làm gì?
Phán quyết đó chỉ có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc. Nếu Việt Nam muốn có một phán quyết có tính ràng buộc giữa mình và Trung Quốc, Việt Nam phải kiện Trung Quốc.
Lợi ích và khả năng thắng
7. Kiện có ích gì khi Trung Quốc sẽ không tuân thủ?
Chắc chắn Trung Quốc sẽ không tự nguyện tuân thủ phán quyết, cũng như họ đã không tuân thủ phán quyết 2016 về vụ kiện Phi-Trung.
Nhưng một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, sẽ vô cùng hữu ích trong việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Các nước khác, đặc biệt là Mỹ, có thể ủng hộ Việt Nam một cách danh chính ngôn thuận, không thể bị cho là thiên vị một bên trong tranh chấp và sự ủng hộ của họ sẽ có nhiều trọng lượng hơn.
Trung Quốc sẽ không thể ngụy biện rằng họ đang giải quyết và quản lý tranh chấp với các nước nhỏ một cách tốt đẹp, các nước ngoài khu vực không nên xen vào. Các nước khác có thể lên tiếng bảo vệ các công ty dầu khí của họ khi các công ty này làm việc với Việt Nam, Trung Quốc không thể yêu cầu họ rút ra khỏi “vùng tranh chấp”.
Nếu trong tương lai Việt Nam phải đưa tranh chấp ra LHQ, vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ leo thang lấn lướt, nếu có trong tay một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, Việt Nam sẽ được nhiều phiếu ủng hộ hơn.
Ngoài ra, phán quyết của HĐTT UNCLOS sẽ xứng đáng với chính nghĩa của Việt Nam hơn là cử người phát ngôn BNG, thậm chí cử ngoại trưởng, ra lặn ngụp trong cù nhầy với các tương nhiệm Trung Quốc, trong khi Bắc Kinh càng ngày càng lấn tới.
8. Lập luận của Việt Nam sẽ là gì?
Lập luận của Việt Nam có thể là:
Các lô 05, 06, 07, 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156, 157 và một phần của bãi Tư Chính nằm trong EEZ tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.
Phần còn lại của bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.
Các khu vực này nằm dưới mặt nước, do đó không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền đối với chúng. Bất cứ nước nào, tối đa cũng chỉ có các loại quyền chủ quyền và quyền tài phán (khác với chủ quyền) dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển và UNCLOS.
Các khu vực này không thể nằm trong EEZ hay thềm lục địa của bất cứ đảo nào đang bị tranh chấp (tức là các đảo thuộc quần đảo Trường Sa). (Lý do là theo Điều 121(3) UNCLOS không đảo nào được hưởng quy chế vùng EEZ hay thềm lục địa, như HĐTT 2016 đã khẳng định).
Trung Quốc không thể có quyền lịch sử đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam. (Lưu ý HĐTT 2016 đã khẳng định rằngTrung Quốc vừa không hề có quyền lịch sử đối với vùng biển và đáy biển bên ngoài lãnh hải 12 hải lý, vừa không thể bắt cá hai tay, một mặt thì đòi tự do tiền-UNCLOS trong việc họ khai thác bên trong EEZ của các nước khác, một mặt thì không chấp nhận tự do tự do tiền-UNCLOS của các nước khác khai thác bên trong EEZ của họ. Việc phê chuẩn UNCLOS có nghĩa phải bỏ cả hai sự tự do này).
Vì vậy các khu vực này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. (Lưu ý đây là những quyền có hạn chế được UNCLOS quy định, khác với chủ quyền mà không nước nào có thể có).
Trung Quốc đã vi phạm các quyền này của Việt Nam và phải ngưng vi phạm.
9. Khả năng Việt Nam thắng là bao nhiêu?
Để thắng, Việt Nam phải vượt qua ba thử thách: Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền hay không (vấn đề jurisdiction), vụ kiện có thể được chấp nhận hay không (vấn đề admissibility), và các lập luận của Việt Nam có đúng hay không (vấn đề merit). Ba thử thách này dựa trên cùng các nguyên tắc trong vụ kiện Trung-Phi.
Tuy HĐTT mới không bị phán quyết 2016 bắt buộc phải xử Việt Nam thắng, khả năng là Việt Nam cũng sẽ thắng.
Thử thách thứ nhất tương đương với trong vụ kiện Trung-Phi, và khả năng là HĐTT mới cũng sẽ kết luận rằng họ có thẩm quyền.
Các luật gia ủng hộ Trung Quốc có thể cho rằng cả hai nước đều đòi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa như một đơn vị bao gồm các thực thể và các vùng nước, do đó tranh chấp là tranh chấp chủ quyền và nằm ngoài thẩm quyền của HĐTT. Nhưng yêu sách của bất cứ nước nào cũng phải dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển, và thêm vào đó các vùng biển trong vụ kiện nằm quá xa quần đảo để bất cứ nước nào có thể đòi chủ quyền với chúng như một đơn vị với quần đảo, cho nên lập luận đó sẽ bị bác bỏ.
Trong thử thách thứ nhì, Việt Nam có một điểm mà Philippines không có, đó là bản “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước
CHND Trung Hoa” ngày 11/10/2011, trong đó có câu “Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị”.
Các luật gia ủng hộ Trung Quốc có thể khai thác câu này, diễn giải rằng nó đã loại cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS. Tuy nhiên, lập luận của HĐTT của vụ kiện Phi-Trung trong phán quyết về thẩm quyền, đoạn 222-225, tuy là về DOC, cho thấy khả năng là diễn giải đó cũng sẽ bị HĐTT mới bác bỏ.
Thử thách thứ ba có hai phần: bác bỏ yêu sách “quyền lịch sử đối với EEZ và thềm lục địa”, và chứng minh “không có EEZ có thể thuộc Trường Sa phủ trùm lên các khu vực trong vụ kiện.”
HĐTT 2016 đã bác bỏ yêu sách “quyền lịch sử đối với EEZ và thềm lục địa” một cách vững chắc, và khả năng là HĐTT mới sẽ công nhận lập luận đó.
Điểm “không đảo nào trong quần đảo Trường Sa có EEZ” là điểm có thể bị tranh cãi nhiều nhất, và khó có thể chắc chắn 100% rằng HĐTT mới cũng sẽ công nhận điểm đó.
May mắn cho Việt Nam, giả sử như HĐTT mới không công nhận điểm đó đi nữa, ba đảo lớn nhất, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc đều nằm xa các khu vực trong vụ kiện.
Giả sử các đảo này được cho là có EEZ đi nữa, EEZ tối đa của chúng chỉ trùm phủ lên một diện tích nhỏ của các khu vực trong vụ kiện. Nếu các luật gia ủng hộ Trung Quốc đưa ra lập luận kiểu quần đảo Trường Sa và vùng nước lân cận là một đơn vị chủ quyền thì cũng vô ích, vì nếu đã là “vùng nước lân cận” thì không thể lan ra đến các khu vực trong vụ kiện. Do đó, khả năng Việt Nam thắng kiện còn lớn hơn khả năng Philippines thắng khi họ đưa Trung Quốc ra tòa.
Rụt rè và lỡ cơ hội
10. Nếu Trung Quốc rút ra khỏi UNCLOS thì sao?
Đây là một câu hỏi quan trọng cho Việt Nam. Nếu Trung Quốc rút ra khỏi UNCLOS trước khi Việt Nam nộp đơn kiện, HĐTT sẽ không còn thẩm quyền để xử, Việt Nam sẽ không còn cơ chế để đưa Trung Quốc ra Tòa.
Năm 2006 Trung Quốc đã vận dụng Điều 298 cho phép họ tuyên bố rút ra khỏi một phần của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS, phần liên quan đến phân định ranh giới biển. Với tuyên bố đó, Trung Quốc đã đi trước một bước và làm cho Việt Nam mất đi cửa ngõ rộng nhất để kiện những bước kế tới của họ: đuổi BP năm 2007, đuổi Exxon Mobil năm 2008, phản đối đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa năm 2009, và hàng loạt những hành động lấn lướt khác.
Nếu Việt Nam để cho Trung Quốc đi bước trước lần nữa, Việt Nam sẽ mất đi cửa ngõ duy nhất còn lại để kiện họ. Có thể Trung Quốc sẽ đi bước này trước khi họ bắt đầu một giai đoạn mới để tước đoạt từ Việt Nam.
TQ có ý đồ gì trong cuộc đối đầu ở Bãi Tư Chính?
11. Vậy tại sao Việt Nam không kiện?
Đây cũng là câu hỏi quan trọng cho Việt Nam. Có thể là Việt Nam quá rụt rè, không làm điều tối ưu, không tận dụng các phương tiện hòa bình để tự vệ, không có một chiến lược tổng thể và lâu dài, có thể sẽ lỡ cơ hội.
Có điều đáng lưu ý là khi Philippines còn bị lấn lướt ít hơn Việt Nam thì họ đã khởi kiện Trung Quốc rồi (năm 2013), và khi đó họ không thể biết nhiều về thắng-thua như ta biết hiện nay.
Điều thứ nhì là khi họ kiện thì Bắc Kinh đã nổi giận nhưng không trả đũa.
Điều thứ ba là mặc dù Tổng thống Duterte có chính sách thân-sợ-thua Trung Quốc, gác phán quyết sang một bên, họ có sự lựa chọn gác hay không – Việt Nam không có sự lựa chọn đó.
Điều thứ tư đáng lưu ý là khi tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Philippines thì người dân Philippines phản ứng mạnh mẽ, và Trung Quốc chỉ lấp liếm đó là tai nạn, tàu của họ định cứu các ngư dân Philippines bị nạn, nhưng do bị tám tàu cá Philippines bao vây nên phải bỏ đi – khác hẳn khi tàu Trung Quốc đâm chìm rất nhiều tàu cá Việt Nam và không mảy may đếm xỉa đến các phản ứng ngoại giao của chính phủ Việt Nam.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả, một nhà nghiên cứu hiện đang sống và làm việc tại Anh Quốc.
Tiếng nói của EU
sẽ giúp VN ‘thêm chính danh’ ở Biển Đông?
Tiếng nói của EU “sẽ tăng thêm tính chính danh cho Việt Nam trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc”, ông Nguyễn Khắc Giang, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Victoria Wellington, New Zealand, bình luận với BBC, và việc ký kết hợp tác quốc phòng với EU sẽ là một thành công ngoại giao của Hà Nội.
Trong bối cảnh căng thẳng tại bãi Tư Chính vẫn đang tiếp diễn, bà Federica Mogherini, Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu (EC) và đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại-an ninh vừa có cuộc gặp Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Hà Nội hôm 5/8.
Báo chí nhà nước Việt Nam tường thuật Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc “khẳng định mạnh mẽ Việt Nam hoan nghênh lập trường của EU ủng hộ tự do, an ninh và an toàn hàng hải tại Biển Đông; đề nghị EU duy trì lập trường đề cao thượng tôn pháp luật quốc tế, UNCLOS 1982, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không có hành động làm phức tạp tình hình, đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông.”
Tin cho hay hai bên sẽ sớm ký thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh (Framework Participation Agreement – FPA) “vì hòa bình, hợp tác và phát triển”.
Đây sẽ là thỏa thuận thứ tư mà EU ký với một quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương, sau Úc, New Zealand và Nam Hàn.
EU ủng hộ quan điểm của Việt Nam về căng thẳng ở Biển Đông
‘Thêm bạn bớt thù’
“Đầu tiên, cần nhắc lại rằng việc xích lại với các đối tác khác nhau liên quan đến Biển Đông là chính sách nhất quán của Việt Nam trong một thời gian dài,” ông Nguyễn Khắc Giang nói với BBC hôm 6/8.
“Ấn Độ từ khi Thủ tướng Narendra Modi lên nắm quyền có nhiều hợp tác với Việt Nam, đặc biệt là ở lĩnh vực khai thác dầu khí.”
“Trong khi đó Nhật Bản tài trợ cả tiền mặt lẫn tàu cho Việt Nam, trong khi Nga là đối tác quan trọng nhất trong khai thác dầu khí, đặc biệt ở những khu vực tranh chấp.”
“Việc thúc đẩy hợp tác quốc phòng với EU cũng không nhằm mục đích nào khác ngoài việc “thêm bạn bớt thù”. Bất kỳ một thỏa thuận quốc phòng nào với EU nếu có sẽ là một thành công ngoại giao của Việt Nam. EU về mặt “quyền lực cứng” không giúp được gì nhiều cho Việt Nam, nhưng là một thể chế có “quyền lực mềm” rất mạnh, tiếng nói của EU sẽ tăng thêm tính chính danh cho Việt Nam trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc.
“Tuy nhiên, đó là vấn đề dài hạn. Câu chuyện tranh chấp trên Biển Đông vẫn phụ thuộc vào các bên liên quan: Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, và Mỹ.”
Đánh giá về tình hình Trung Quốc hiện nay, ông Nguyễn Khắc Giang cho rằng Bắc Kinh đang “gặp nhiều vấn đề lớn trong nước, từ suy giảm kinh tế do thương chiến với Mỹ, cho đến bất ổn ở Hong Kong và các khu tự trị Nội Mông và Tân Cương”.
Trong bối cảnh đó, “sẽ dễ hiểu nếu lá bài chủ nghĩa dân tộc lại được sử dụng để lôi kéo ủng hộ,” ông Nguyễn Khắc Giang nói thêm.
“Không chỉ với Việt Nam, hiện Trung Quốc đã cử các tàu khảo sát đến vùng đặc quyền kinh tế của cả Philippines lẫn Malaysia.”
“Theo tôi, sự hung hãn của Bắc Kinh tại Biển Đông có lẽ sẽ không kết thúc sớm.”
Tại buổi họp báo ở Hà Nội hôm 5/8, bà Federica Mogherini nói Liên hiệp châu Âu lo ngại về “căng thẳng đang dâng cao” tại khu vực Biển Đông.
Bà nói việc quân sự hóa ở Biển Đông đang đe dọa hòa bình trong vùng biển có tranh chấp.
“Liên hiệp châu Âu hoàn toàn ủng hộ quan điểm và lo ngại của quý vị về tình hình và căng thẳng gia tăng ở Biển Đông. Chúng tôi tin rằng căng thẳng này, việc quân sự hóa này chắc chắn không có lợi cho một môi trường hòa bình. Tại Liên hiệp châu Âu, chúng tôi luôn luôn bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không. Điều đó có lợi cho tất cả các quốc gia.”
“Chúng tôi ủng hộ sự minh bạch và kết thúc nhanh chóng đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông có ràng buộc pháp lý giữa Trung Quốc và Asean.”
TQ đánh lừa cộng đồng quốc tế về việc điều tàu
hoạt động trái phép trong vùng biển của Việt Nam
Phát biểu tại Hội nghị cấp cao hợp tác truyền thông Trung Quốc – ASEAN ở thủ đô Jakarta, Indonesia, Đại sứ Trung Quốc tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Hoàng Khê Liên (24/7) đã đưa ra những tuyên bố ngụy biện cho hành động phi pháp, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Bãi Tư Chính vừa qua.
Trung Quốc xuyên tạc về tình hình Biển Đông và căng thẳng ở Bãi Tư Chính
Ông Hoàng Khê Liên đánh giá quan hệ Trung Quốc-ASEAN đã bước vào giai đoạn phát triển toàn diện mới, đồng thời đề cập vấn đề biển Đông; cho rằng “tình hình biển Đông vẫn đang phát triển theo xu thế ổn định và có xu hướng tốt đẹp”. Hoàng Khê Liên cho biết ông ta “muốn nhấn mạnh ba từ khóa quan trọng”:
Thứ nhất là “Xu thế ổn định theo hướng tốt đẹp”. Hoàng Khê Liên nhận định, “hiện nay dưới sự nỗ lực chung của Trung Quốc và ASEAN, cục diện ổn định theo hướng tốt ở biển Đông đang thêm vững chắc, nguyện vọng cùng gìn giữ hòa bình ổn định ở biển Đông của Trung Quốc và các nước ASEAN càng mạnh mẽ, hành động để thúc đẩy phát triển thịnh vượng ở biển Đông càng chắc chắn. Biển Đông từ một điểm cọ xát trong quan hệ Trung Quốc-ASEAN dần chuyển biến thành điểm tăng trưởng trong đối thoại về vấn đề trên biển”.
Thứ hai là “Tiến triển tích cực”. Theo đó, tại hội nghị cấp cao Trung Quốc-ASEAN tháng 11/2018, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đề xuất hoàn thành đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) cũng các nước ASEAN trong vòng 3 năm, và nhận được sự hoan nghênh, ủng hộ của các nước ASEAN…
Thứ ba là “Can thiệp từ bên ngoài”. Sự hòa bình và ổn định ở Biển Đông có không ít thách thức, nhưng đe dọa lớn nhất trên thực tế đến từ ngoài khu vực; xuyên tạc một số nước lớn bên ngoài viện cớ “tự do hàng hải” để điều động chiến hạm, chiến cơ đến gây sự tại Biển Đông, xâm nhập lãnh hải các nước hay tổ chức tập trận chung. Những nước này lo ngại bị giới hạn bởi các quy tắc trong tương lai ở khu vực, nên có ý đồ nhúng tay vào quá trình đàm phán COC.
Ngoài ra, Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN cũng chỉ trích thông cáo mới đây của Bộ ngoại giao Mỹ, ông Pompeo và ông Bolton; cho rằng “các sức mạnh ngoài khu vực không muốn nhìn thấy sự hòa bình và ổn định được khôi phục ở biển Đông; bất chấp sự thật, cố ý gây sóng gió, mưu đồ xuyên tạc chuyện Trung Quốc dùng thủ đoạn chèn ép để cản trở hoạt động dầu khí ở biển Đông của các nước ASEAN’ để ly gián quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN”; đồng thời kêu gọi “mong rằng các nước ASEAN nêu cao cảnh giác, không để mắc lừa và chúng ta phải cùng nhau đề phòng và ngăn chặn thế lực bên ngoài quấy nhiễu, nắm chắc trong tay chìa khóa cho hòa bình ổn định khu vực, cùng làm tốt những công việc của khu vực, gìn giữ hòa bình ổn định khu vực”.
Sự thật khác xa so với những gì Trung Quốc đánh lừa
Việc Trung Quốc đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông cũng đã bị báo chí quốc tế phản ánh rộng rãi. Báo chí quốc tế dẫn lời các chuyên gia về hàng hải và hải quân thế giới cho biết, từ đầu tháng 7, tàu khảo sát Hải Dương 8 cùng với nhiều tàu cảnh sát biển, tàu hải giám, tàu dân quân biển, trong đó có tàu cảnh sát biển loại lớn nhất và có vũ trang của Trung Quốc mang số hiệu 3901 với tải trọng 12.000 tấn, đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, để thực hiện một cuộc khảo sát địa chấn.
Nhóm tàu Hải Dương 8 đã có những hành vi xâm phạm vào vùng biển, theo sự khẳng định của báo chí quốc tế, là khu vực nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc tế. Những hình ảnh vệ tinh được công bố cho thấy, nhóm tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc đã xâm phạm vào khu vực bãi Tư Chính – một bãi ngầm san hô thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cách các nhóm đảo Phú Quý và Côn Đảo khoảng 200 hải lý và bờ biển Việt Nam khoảng 220 hải lý.
Các bãi ngầm Tư Chính cùng các bãi ngầm và đá ngầm ở khu vực này là phần nối dài của thềm lục địa Việt Nam về phía Đông Nam, ngăn cách với quần đảo Trường Sa bằng một rãnh sâu nên theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, nó hoàn toàn không thuộc quần đảo Trường
Sa. Vì thế, việc Trung Quốc đưa nhóm tàu Hải Dương 8 vào vùng biển thuộc bãi ngầm Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam đã làm gia tăng căng thẳng trên Biển Đông, gây lo ngại sâu sắc trong khu vực và trên thế giới.
Cộng đồng quốc tế lên án Trung Quốc
Cộng đồng quốc tế đã ngay lập tức có phản ứng trước hành vi gây căng thẳng trên Biển Đông của Trung Quốc khi đưa nhóm tàu Hải Dương 8 xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền không thể tranh cãi và bác bỏ của Việt Nam. Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) nêu rõ, trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã có những hành vi quấy rối các hoạt động khai thác dầu khí ngoài khơi thuộc vùng lãnh hải Malaysia và Việt Nam, trong đó có việc triển khai tàu khảo sát địa chất Hải Dương 9 với sự hộ tống của các tàu hải cảnh tiến hành các hoạt động khảo sát địa chất gần bãi Tư Chính thuộc thềm lục địa Việt Nam. Báo cáo của AMTI cũng chỉ rõ, những hành vi của Trung Quốc ở ngoài khơi Malaysia và vùng biển Việt Nam cho thấy nước này sẵn sàng có hành động cưỡng ép và dọa dùng vũ lực để ngăn cản các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của các nước láng giềng.
Mỹ với vai trò là quốc gia nằm bên bờ Thái Bình Dương và đã tuyên bố “có lợi ích sống còn” trên đại dương rộng lớn nhất thế giới này, Mỹ đã có những phản ứng mạnh trước hành vi gây căng thẳng, đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định trên Biển Đông của Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Mỹ cùng nhiều quan chức đã chỉ trích các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại của Trung Quốc nhằm vào các hoạt động phát triển dầu mỏ và khí đốt của các quốc gia có tuyên bố chủ quyền khác trong khu vực đã đe dọa an ninh năng lượng khu vực và làm tổn hại tới thị trường năng lượng của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và mở. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ kêu gọi Trung Quốc chấm dứt “hành vi bắt nạt và không thực hiện những hành động khiêu khích cũng như gây bất ổn”. Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ John Bolton nhấn mạnh: “Hành động bắt nạt của Trung Quốc” đối với các quốc gia láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa đến hòa bình cũng như ổn định ở khu vực.
Các nguồn tin báo chí khu vực dẫn các nguồn tin cho biết, trong dự thảo Tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN dự kiến diễn ra cuối tháng 7 này tại Thủ đô Bangkok (Thái Lan) sẽ đề cập tới căng thẳng mới do Trung Quốc gây ra trên Biển Đông. Trong đó, các nước ASEAN bày tỏ quan ngại về những hành động của Trung Quốc “làm xói mòn lòng tin” và gia tăng căng thẳng trên Biển Đông.
Dư luận khu vực và thế giới cho rằng, là cường quốc trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, một Ủy viên Thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và một thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, Trung Quốc phải có trách nhiệm và nghĩa vụ góp phần gìn giữ môi trường hòa bình ổn định, thúc đẩy hợp tác, hữu nghị trên toàn thế giới cũng như trong khu vực Biển Đông. Trung Quốc vì thế phải rút ngay nhóm tàu Hải Dương 8 khỏi vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông để làm giảm căng thẳng hiện nay.
Phản ứng cứng rắn, kiên quyết và hợp pháp của Việt Nam
Việt Nam từ khi Trung Quốc đưa nhóm tàu Hải Dương 8 xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc, trao Công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Việt Nam cũng nêu rõ, các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.
Ngày 16/7, trả lời câu hỏi của một số phóng viên trong và ngoài nước liên quan đến diễn biến gần đây ở Biển Đông, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cho biết: “Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam nếu không được phép của Việt Nam đều vô giá trị, xâm phạm vùng biển Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Chủ trương nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 trước bất cứ hành vi nào xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Việt Nam hết sức coi trọng hòa bình, hữu nghị, hợp tác, thiện chí và sẵn sàng giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình. Trên cơ sở đó, trong thời gian qua, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các biện pháp hòa bình để giải quyết vấn đề, đấu tranh yêu cầu tôn trọng vùng biển Việt Nam, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên vùng biển của mình, không có hành động làm phức tạp tình hình. Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam đã và đang thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam”.
Ngày 19/7, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 17/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng hôm nay nhấn mạnh: “Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam. Như đã khẳng định tại phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao ngày 16/7, lập trường nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 trước bất cứ hành vi nào xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Duy trì trật tự, hòa bình, an ninh ở khu vực Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực cũng như cộng đồng quốc tế. Do đó, Việt Nam mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này”.
Ngày 25/7, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào mục tiêu nói trên, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; nhấn mạnh các hành động gần đây của Trung Quốc là “nghiêm trọng” và Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền, cụ thể: “Chúng tôi đã đề cập trong các phát biểu trước đây về việc này. Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán, như đã khẳng định trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982), bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Với mục tiêu trên, Việt Nam đã có nhiều hình thức giao tiếp, ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam triển khai những biện pháp phù hợp, đúng pháp luật. Duy trì hòa bình, ổn định, đảm bảo an toàn hàng không, hàng hải, thượng tôn pháp luật, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia theo UNCLOS, là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước và cộng đồng quốc tế”.
GS Carl Thayer:
Mỹ sẽ không ‘ép’ Trung Quốc ra khỏi Bãi Tư Chính
Trong lúc Việt Nam đang vận động sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong vụ đối đầu với Bắc Kinh ở Bãi Tư Chính trên Biển Đông thì Giáo sư Carl Thayer của Học Viện Quốc phòng Úc nhận định rằng Mỹ sẽ không can thiệp vào vụ tranh chấp này.
Cho tới thời điểm này, Mỹ là nước duy nhất lên tiếng chỉ trích Trung Quốc “bắt nạn” Việt Nam về hoạt động khai thác dầu khí ở Biển Đông ngay sau khi Hà Nội lên tiếng cáo buộc Bắc Kinh xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình hôm 19/7.
Tin cho hay Trung Quốc đã cử một tàu khảo sát được nhiều tàu hải cảnh hộ tống tới khu vực Bãi Tư Chính từ ngày 3/7 và Bộ Ngoại giao ở Hà Nội trong những tuần qua liên tiếp kêu gọi Trung Quốc hãy rút các tàu đó ra khỏi khu vực này.
Ngoài Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, một số các quan chức cấp cao trong chính phủ và quốc hội Mỹ đã lên án hành động của Trung Quốc trên Biển Đông, và bày tỏ ủng hộ đối với Việt Nam giữa lúc vụ đối đầu tại Bãi Tư Chính tiếp diễn.
Trong lúc Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo tới Úc tham dự diễn đàn an ninh thường niên giữa Mỹ và Úc, “việc lên án Trung Quốc đã được đưa ra,” theo GS Thayer, người từng là thành viên cao cấp của Viện nghiên cứu an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Bộ Quốc phòng Mỹ ở Hawaii.
Cũng tại Úc hôm 4/8, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper cũng lên tiếng chỉ trích Trung Quốc gây bất ổn khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Mặc dù vậy, theo GS Thayer, “Mỹ dưới thời (Tổng thống) Trump sẽ không ép (tàu) Trung Quốc phải ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.” Theo giải thích của Giáo sư Thayer, ngoài các đồng minh của Mỹ trong khu vực, như Thái Lan và Philippines, thì Mỹ sẽ không hành động để can thiệp.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ở Bangkok vừa kết thúc cuối tuần qua, Phó thủ tướng-Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã tố cáo Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông.
Bất chấp những nỗ lực của Việt Nam tìm cách đưa vấn đề Biển Đông ra hội nghị nhưng thông cáo chung của ASEAN, theo GS Thayer, chỉ có hai đoạn nói về Biển Đông – đoạn đầu nói về những tiến bộ đạt được với Trung Quốc và đoạn còn lại nói về những vấn đề nghiêm trọng nhưng không cho biết đó là những vấn đề gì.
Cho đến hôm 5/8, phó chủ tịch Ủy ban Châu Âu Federica Mogherini, người đang có chuyến thăm tại Việt Nam, đã lên tiếng khẳng định quan điểm của EU ủng hộ “đảm bảo tự do hàng hải, hàng không vì lợi ích của các nước, các bên cần phải tuân thủ luật pháp quốc tế” sau khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nêu vấn đề căng thẳng Biển Đông trong cuộc gặp với đại diện cấp cao của EU tại Hà Nội.
“Tôi nghĩ rằng Việt Nam đã phải thất vọng về phản ứng của cộng đồng quốc tế trừ Hoa Kỳ,” GS Thayer nhận định và cho biết rằng đại sứ Việt Nam tại Úc đã bày tỏ lo ngại về việc báo chí ở Úc không đăng tải thông tin về sự việc và không có bình luận gì từ phía chính phủ Úc.
GS Thayer cho rằng điều quan trọng đối với Việt Nam lúc này là khi Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tới thăm Washington trong thời gian tới trong năm nay, “liệu Việt Nam và Mỹ có nâng mối quan hệ lên tầm đối tác chiến lược hay không? Và liệu Việt Nam sẽ làm điều đó vì áp lực từ Trung Quốc hay không?”
Việt Nam đang muốn bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hàng hải của mình trong Biển Đông, trong khi Hoa Kỳ đang tìm cách kiềm hãm cao vọng bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, thách thức vị thế cường quốc số 1 của họ. Dù mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đã nồng ấm lên trong những năm gần đây nhưng 2 quốc gia cựu thù mới chỉ dừng ở mức quan hệ đối tác toàn diện.
Theo ông Thayer, Việt Nam đang bị thúc ép để tiếp nhận một hàng không mẫu hạm của Mỹ cập cảng Tiên Sa trong năm nay. Năm ngoái, tàu sân bay USS Carl Vinson lần đầu tiên cập cảng ở Đà Nẵng, đánh đi tín hiệu về sự hiện diện của Mỹ nhiều hơn trên khu vực Biển Đông.
Trung Quốc ‘leo thang’
Vụ đụng độ đang diễn ra được coi là tranh chấp căng thẳng nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông kể từ năm 2014, khi Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương 981 vào khu vực mà Hà Nội nói là vùng đặc quyền kinh tế của mình, làm bùng nổ nhiều cuộc biểu tình trong và ngoài nước chống lại hành động của Trung Quốc.
GS Thayer, người chuyên nghiên cứu về Việt Nam, cho VOA biết hôm 5/8 rằng có tới 80 tàu Trung Quốc tại Bãi Tư Chính, nơi tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc đang tiến hành các hoạt động khảo sát trong khu vực mà Việt Nam nói là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.
Ông Thayer cho biết thông tin mà ông có được là từ một phóng viên của Thông Tấn Xã Việt Nam. Truyền thông trong nước không đăng thông tin về việc Trung Quốc điều thêm hàng chục tàu tới khu vực Bãi Tư Chính để hộ tống tàu Hải Dương 8.
GS Thayer nói ông không mấy ngạc nhiên về con số 80 tàu của Trung Quốc đang hiện diện ở đây bởi vì vào năm 2014, khi Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cũng đã có đến hơn 100 tàu của họ được điều đến khu vực đó.Cách đây hơn 1 tuần, Việt Nam thông báo gia hạn thời gian hoạt động của dàn khoan Hakuryu 5 tại Lô 06.1 ở Bể Nam Côn Sơn của
Bãi Tư Chính đến ngày 15/9. Một số nguồn tin cho hay Bắc Kinh đã yêu cầu Hà Nội rút giàn khoan ở khu vực này đi và đổi lại, Trung Quốc sẽ rút các tàu của họ. Nhưng Việt Nam bác bỏ đề nghị này.
Trước đó hôm 1/8, theo giáo sư danh dự của Đại học New South Wales, Trung Quốc đã sử dụng vòi rồng công suất cao và có các hành xử nguy hiểm tại Bãi Tư Chính nhằm ngăn cản các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam tại lô 06.1. Ông Thayer trích dẫn thông tin chính thức của Việt Nam được truyền bá qua các bản tin giấy cho biết 35 tàu của Trung Quốc đã được xác định tại khu vực này nhưng không biết vào ngày nào.
“Một trong những điều họ vẫn chưa làm mà họ đã làm hồi năm 2014 là đưa các phóng viên nước ngoài lên tàu hải cảnh để ghi nhận về vụ việc,” GS Thayer cho rằng đó là điều Việt Nam nên làm vào lúc này.
0 nhận xét