Long Xuyên Hải Ngoại

Dù số phận mang tới điều gì,

hãy can đảm tranh đấu cho quê hương tự do

Tin Biển Đông – 17/06/2019

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019 18:50 // ,

Tin Biển Đông  – 17/06/2019

Nhìn lại những hành vi phi pháp

của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian gần đây

Nhằm thực hiện mưu đồ “độc chiếm Biển Đông”, thời gian gần đây Trung Quốc đã bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp các cam kết chính trị với ASEAN và Việt Nam, thực hiện một có hệ thống các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển, đảo của của Việt Nam đã được luật pháp quốc tế và đặc biệt là UNCLOS thừa nhận.
Các hành vi của Trung Quốc trong thời gian gần đây dưới góc nhìn của luật pháp quốc tế
Các hành vi của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông gồm: Tuyên bố về yêu sách đường chữ U chín đoạn chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông ngày 7/5/2009; Thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ngày 22/6/2012; Tiến hành tôn tạo, xây dựng trái phép các bãi cạn trên quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đã xâm lược của Việt Nam tháng 3/1988 (bãi Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga ven, Tư Nghĩa, Su Bi); Đưa vào hệ thống đăng ký quyền sử dụng đất đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam tháng 6/2014; Vẽ lại bản đồ quốc gia theo khổ dọc với đường 10 đoạn chiếm hơn 90% diện tích Biển Đông ngày 26/6/2014; Tiến hành quân sự hóa các thực thể đang chiếm đóng trái phép ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa…
Các hành vi nói trên của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền đối với lãnh hải và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là những bộ phận không thể tách rời của Việt Nam. Về phương diện pháp luật quốc tế, đây là hành vi “xâm lược mềm”, “xâm lược bằng bản đồ” của Trung Quốc. Các hành vi này được Trung Quốc thực hiện một cách bài bản, có hệ thống nhằm từng bước thay đổi hiện trạng ở Biển Đông, cụ thể hóa âm mưu độc chiếm Đông. Đồng thời, biến Biển Đông nằm trọn trong vành đai liên hoàn với 3 điểm tiền tiêu chiến lược từ Bắc xuống Nam gồm: Đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam để từ đó kiểm soát, khống chế toàn bộ tuyến đường hàng hải, hàng không và mọi hoạt động trên Biển Đông, biến Biển Đông thành “ao” riêng của Trung Quốc.
Các hành vi của Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông gồm: Dùng tàu Hải giám quấy nhiễu và cắt cáp ngầm của tàu Bình Minh 2 đang hoạt động thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 25/6/2011; Ngang nhiên mời thầu quốc tế 09 lô dầu khí hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 6/2012; Cản trở hoạt động hợp tác khai thác dầu khí của Việt Nam với các công ty nước ngoài; Ngăn chặn, cản trở ngư dân Việt Nam khai thác, đánh bắt cá hợp pháp trên Biển Đông… Các hành vi này đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã được Việt Nam xác lập và thực thi phù hợp với UNCOLS. Không những vậy, những hành vi này còn vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã được Việt Nam xác lập và thực thi phù hợp với UNCOLS.
Tham vọng bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc không dừng lại mà ngày càng gia tăng cả về tính chất và mức độ nguy hiểm, đe doạ hoà bình, an ninh, tự do hàng hải, hàng không và thương mại của khu vực và thế giới.
Vụ hạ đặt trái phép giàn khoan 981
Đỉnh điểm là sự kiện Tổng công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của UNCLOS (cách đảo Lý Sơn, điểm cơ sở số 10 trên tuyến đường cơ sở của Việt Nam xác lập theo Tuyên bố của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 12/11/1982, 119 hải lý) vào ngày 1/5/2014. Đánh giá trên tất cả các phương diện pháp luật, chính trị và quan hệ quốc tế, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp quốc, các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia (các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế), UNCLOS, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC năm 2002 và các thỏa thuận song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, cụ thể:
Về phương diện pháp luật quốc tế, đây là hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam đã được thừa nhận và quy định trong UNCLOS. Theo UNCLOS, quốc gia ven biển có quyền thiết lập vùng đặc quyền kinh tế rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng biển này, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về kinh tế (quyền thăm dò khai thác,
bảo tồn, quản lý tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng biển này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió). Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán (cho phép, kiểm tra, giám sát, xử lý ) đối với các hoạt động lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình, nghiên cứu khoa học về biển và bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Để thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình, UNCLOS cho phép các quốc gia ven biển có quyền “ thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia đã ban hành theo đúng Công ước”.
Bên cạnh đó, UNCLOS cũng quy định trách nhiệm của các quốc gia khác, “khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước…”.
Đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, UNCLOS cho phép quốc gia ven biển thiết lập một vùng đáy biển có chiều rộng tính từ đường cơ sở đến rìa lục địa hẹp nhất là 200 hải lý và rộng nhất là 350 hải lý là thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền đối với mọi tài nguyên thiên nhiên có trong thềm lục địa của mình. Đây là các quyền có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó.
Đồng thời, quốc gia ven biển có quyền tài phán ở thềm lục địa trong 4 lĩnh vực: (i) Lắp đặt các đảo và công trình thiết bị nhân tạo; (2) Nghiên cứu khoa học về biển; (iii) Khoan ở thềm lục địa; (iiii) Bảo vệ giữ gìn môi trường biển.
Nghiêm trọng hơn, khi các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt việc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan Hải Dương 981 thì Trung Quốc đã huy động thường xuyên và liên tục một lực lượng hùng hậu với hơn 100 tàu các loại gồm cả tàu hộ vệ tên lửa, tàu tấn công nhanh, tàu kéo, tàu hải giám, tàu ngư chính, tàu hải cảnh, tàu hải tuần và hàng trăm lượt máy bay quân sự đe dọa và tấn công các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam và tàu cá của ngư dân Việt Nam, làm thiệt hại nặng nề đối với tài sản và sức khỏe của các chiến sĩ Cảnh sát biển, Kiểm ngư viên và ngư dân Việt Nam. Đây là hành vi sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực, vi phạm Hiến chương Liên hợp quốcvà các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia đã được Đại hội đồng Liên hợp quốcthông qua ngày 24/10/1970 trong đó có Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia; Nguyên tắc cấm sử dụng và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; Nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế; Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau và Nguyên tắc tậntâm thực hiện các cam kết quốc tế (tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế Pacta sunt servanda). Đặc biệt, hành vi này của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được UNCLOS ghi nhận mà Trung Quốc, một cường quốc của thế giới và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốcđã phê chuẩn năm 1996, lẽ ra Trung Quốc phải gương mẫu và tuân thủ thực hiện.
Về phương diện pháp luật quốc gia, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 đã vi phạm nghiệm trọng pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013 và Luật Biển Việt Nam năm 2012. Trong đó, Luật Biển Việt Nam 2012, một đạo luật chuyên ngành về biển, là cơ sở pháp lý quốc gia quan trọng nhất để nhà nước, cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam quản lý, khai thác và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển của Việt Nam (nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) đã xác lập hoàn toàn phù hợp với UNCLOS.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định:Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện, quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt
động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trinh trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
Đồng thời, Luật Biển 2012 khẳng định, Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này.
Trong thềm lục của CHXHCN Việt Nam, Luật Biển 2012 quy định, thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định, Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên. Quyền chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng  ý của Chính phủ Việt Nam. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan[19].
Về phương diện chính trị ngoại giao quốc tế, hành vi của Trung Quốc đãvi phạm nghiên trọng Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông mà Trung Quốc và các nước ASEAN đã ký năm 2002 (DOC); Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa năm 1993 và Thoả thuận về nguyên tắc chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011.
Đồng thời, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã phá vỡ các Thoả thuận về giải quyết tranh chấp lãnh thổ, biên giới giữa hai nước năm 1993 và 2011. Trong đó, theo Thỏa thuận năm 1993, hai nước cam kết thương lượng giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước trên cơ sở năm nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không cna thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình; căn cứ vào tiêu chuẩn và nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận và tham khảo thực tiễn quốc tế để giải quyết các vấn đề
biên giới lãnh thổ… không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc de dọa vũ lực.
Thỏa thuận năm 2011 tiếp tục ghi nhận, Việt Nam và Trung Quốc cam kết: (i)Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng; (ii) Tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên biển; (iii) Nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước, nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC); (iv) Tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi; (v) Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau; (vi) Tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên.
Về phương diện an ninh, hàng hải quốc tế và thương mại quốc tế, hành vi của Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng an ninh, an toàn hàng hải và hoạt động thương mại của các nước trong khu vực và thế giới, đặc biệt là các cường quốc Mỹ, Ấn Độ, Nga, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc…. và chính của Trung Quốc. Mặt khác, hành vi của Trung Quốc đã làm gia tăng chạy đua vũ trang và nguy cơ xung đột vũ trang, một hệ lụy vô cùng nguy hiểm đối với hoà bình và an ninh của các nước trong khu vực và thế giới.

Biện pháp buộc TQ

phải bảo vệ môi trường sinh thái ở Biển Đông

Việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông thông qua xây dựng 7 căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo đã gây tổn thất diện rộng đối với môi trường sinh thái.
Môi trường sinh thái ở Biển Đông đang bị tàn phá nghiêm trọng
Trong số những thách thức chiến lược tại châu Á – Thái Bình Dương, việc phá hủy hệ sinh thái biển là thách thức bị coi nhẹ nhất. Đông Nam Á là khu vực có hệ sinh thái biển phong phú, nơi cư ngụ của 76% loài san hô và 37% loài cá rạn san hô trên thế giới. Trong 2 thập kỷ qua, nhiều chứng cứ, tài liệu cho thấy ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt trái phép với quy mô lớn tại quền đảo Trường Sa và khu vực biển lân cận, sử dụng xianua, chất gây nổ, dây nổ. Các sinh vật biển nằm trong phạm vi ảnh hưởng rất lớn, gồm rùa biển, trai, hàu khổng lồ, cá mập, lươn và san hô.
Dư luận dường như đã bỏ sót phán quyết của Tòa Trọng tài liên quan đến việc tàn phá nặng nề mà Trung Quốc gây ra đối với hệ sinh thái biển từ các hoạt động khai phá của họ tại Trường Sa. Quá trình xây dựng đảo của Trung Quốc đã gây ra những tổn thất lâu dài và không thể khắc phục được đối với hệ sinh thái. Lãnh đạo Trung Quốc từ chối chấp nhận lời phê bình của Tòa Trọng tài, Bắc Kinh cho rằng quá trình xây dựng đảo không hề gây ra mối nguy hiểm nào đối với các loài sinh vật trong khu vực và thậm chí còn gọi đó là “dự án xanh”. Đây kông phải là một sự phá hoại sơ xuất. Tòa phát hiện ra rằng quan chức Trung Quốc nhận thức rất đầy đủ về bản chất và quy mô của những hành động này nhưng lại không dừng lại. Mặc dù Trung Quốc phải có trách nhiệm theo Điều 192, 194 của Công ước quốc tế về Luật Biển trong bảo vệ và bảo tồn môi trường biển nhưng họ vẫn thực hiện những hành vi hủy hoại hệ sinh thái ở Biển Đông.
Trong nhiều năm, hoạt động tàn phá nhất của Trung Quốc tại Biển Đông là đánh bắt trộm trai khổng lồ, hủy diệt hơn 40 dặm vuông những rạn san hô đa dạng nhất trên thế giới. Họ thường dùng chân vịt để mở miệng những con trai khổng lồ mà vỏ của nó được bán như những món hàng xa xỉ ở Trung Quốc. Việc đào lên một rạn san hô không chỉ phá hoại hệ sinh thái ở đó do bản chất liên kết giữa các khu vực biển tại Biển Đông mà sự hủy hoại ở một nơi còn dẫn tới những hậu quả ở những nơi khác.
Bất chấp những chứng cứ đó, Bắc Kinh vẫn khẳng định hoạt động của họ mang lại điều tốt đẹp. Tại Đối thoại Shang-ri La đầu năm 2016, Đô đốc Tôn Kiến Quốc – Phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, nói rằng bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu quân sự, Trung Quốc
đang thực hiện xây dựng trên một số đảo và rạn san hô ở Biển Đông để thực hiện tốt hơn trách nhiệm quốc tế của họ, gồm cả việc bảo vệ môi trường. Nếu xảy ra điều gì, các nhà phân tích Trung Quốc sẽ viện cớ rằng sự phá hủy môi trường trên diện rộng là do những hoạt động đánh bắt trái phép không thể ngăn chặn của các quốc gia khác trong khu vực. Những tuyên bố kiểu như vậy là nhằm làm xao lãng sự chú ý của dư luận khỏi hoạt động phá hoại môi trường của Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế, các nước phải có đánh giá về tác động đối với môi trường trước khi tiến hành việc xây dựng đảo. Việc bỏ qua của Bắc Kinh đối với vấn đề này là không thể bào chữa được. Trong một tuyên bố gửii Tòa án quốc tế vào tháng 12/2014, Trung Quốc không hề nhắc tới bất kỳ nghiên cứu đánh giá nào về tác động đối với môi trường. Với sự chối bỏ trách nhiệm này. Trung Quốc đã dồn gánh nặng cho các quốc gia biển khác trong khu vực.
Cần làm gì để bảo vệ môi trường biển
Đối mặt với những thảm họa môi trường, các nước Đông Nam Á phải cùng nhau gìn giữ và bảo vệ môi trường biển trong khu vực.
Trước tiên, cần thảo luận nghề đánh bắt cá, cụ thể là việc điều hành di cư các đàn cá. Các báo cáo gần đây cho thấy các đàn cá ở Biển Đông đang ở trong điều kiện bấp bênh. Các quốc gia trong khu vực cần có tính minh bạch hơn về các hoạt động khai thác tài nguyên. Mỗi bên đều phải cố gắng hết sức để đảm bảo rằng hệ sinh thái được gìn giữ một cách tốt nhất và được khai thác bền vững.
Thứ hai, tạo ra một cơ chế khu vực trong gìn giữ môi trường biển, đây sẽ là phần khó khăn nhất. Tháng 4/2016, trong cuộc họp đầu tiên của nhóm nghiên cứu thuộc Hội đồng Hợp tác An ninh châu Á – Thái Bình Dương tại Philippines, đã có nhiều cuộc thảo luận về bộ quy tắc và quy định trong bảo vệ môi trường biển. Nhóm này nhấn mạnh cần phát triển phương pháp tổng hợp trong điều hành các hoạt động thương mại và hành nghề trên biển. Đây không phải là lần đầu các quốc gia trong khu vực phối hợp cùng nhau vì lợi ích của các sinh vật biển. Năm 2011, các nước Đông Nam Á đã phối hợp phát triển phương pháp và công cụ bảo vệ các rạn san hô theo khuôn khổ của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Năm 2012, trong tài liệu “Tương lai mà chúng ta mong muốn”, Liên hợp quốc đã xác định bảo vệ san hô tại châu Á – Thái Bình Dương là vấn đề trọng tâm và là một mục tiêu phát triển bền vững cần đạt được đến năm 2020.
Trong khi cả thế giới bị ám ảnh bởi những tác động về địa chính trị của những xung đột tại Biển Đông thì có những câu hỏi về môi trường biển vẫn cần giải quyết. Nguồn tài nguyên thiên nhiên tại Biển Đông là trọng tâm đối với nền kinh tế quốc gia, kế sinh nhai của rất nhiều những người dân ven biển, đồng thời cũng là nguồn thực phẩm rẻ và giàu chất dinh dưỡng đối với những người dân ở đây. Tuy vậy, những xung đột về chủ quyền đã làm giảm đi năng lực của các chính phủ trong phối hợp quản lý các nguồn tài nguyên tại Biển Đông. Trung Quốc và các nước láng giềng cần tạm gác lại sự thù địch và phối hợp hiệu quả trong gìn giữ, khôi phục hệ sinh thái biển tại châu Á – Thái Bình Dương.
Biện pháp buộc Trung Quốc phải bảo vệ môi trường ở Biển Đông
Kể từ năm 2013, Trung Quốc bắt đầu một kế hoạch xây dựng đảo tham vọng trên bãi đá san hô thuộc quần đảo Trường Sa. Kế hoạch này là một phần trong nỗ lực củng cố các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại biển Hoa Nam (Biển Đông) với 6 bên tranh chấp khác là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam và vùng lãnh thổ Đài Loan.
Đến nay, sự chú ý của thế giới mới chủ yếu tập trung ở tác động về mặt an ninh của việc này. Vài năm gần đây, Hải quân Mỹ đã tiến hành các hoạt động tự do hàng hải trên Biển Đông nhằm thách thức việc Trung Quốc kiểm soát vùng biển này. Tháng 7/2016, Tòa Trọng tài quốc tế tại La Hay đã đưa ra quyết định chống lại những tuyên bố chủ quyền quá mức của Trung Quốc – điều mà các bên tranh chấp và Mỹ đều hoan nghênh, nhưng Trung Quốc ngay lập tức bác bỏ.
Tác động về mặt chính trị từ hoạt động xây đảo của Trung Quốc được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên, hậu quả đối với môi trường lại bị bỏ sót. Xây dựng đào tạo ra sự tàn phá đối với các rạn san hô mong manh và đe dọa cuộc sống của các loài sinh vật ở Biển Đông. Trên thực tế, bảo vệ môi trường có thể là cơ hội nhằm áp đặt áp lực quốc tế đối với Bắc Kinh. Phán quyết của Tòa quốc tế đã cho rằng việc xây dựng đảo tạo ra sự tàn phá môi trường, không
thể phục hồi, rõ ràng là vi phạm Điều 192 và 194 trong Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS).
Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách bảo vệ những lập luận về môi trường của họ. Tháng 5/2016, trước khi Tòa quốc tế đưa ra phán quyết, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố rằng với tư cách sở hữu quần đảo Nam Sa (cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa), Trung Quốc rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường sinh thái của các đảo, bãi đá san hô và vùng nước ở đây hơn bất cứ quốc gia, tổ chức và người dân nào trên thế giới. Ông Hồng Lỗi cho rằng Trung Quốc đang xây dựng đảo theo cách phù hợp với hệ sinh thái và khẳng định kế hoạch này nhằm mục đích hòa bình. Tuy vậy, đến nay, hoạt động của Trung Quốc đã phá hoại một khu vực hơn 30 dặm vuông – gấp 1,5 lần khu Mahattan ở thành phố New York (Mỹ).
Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Harry Harris phát biểu tại Quốc hội Mỹ rằng việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông thông qua xây dựng 7 căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo đã gây tổn thất diện rộng đối với môi trường sinh thái. Quan điểm của Harris là hoàn toàn có cơ sở. Theo Giáo sư về sinh vật biển và hệ sinh thái, ông John McManus tại Đại học Miami (Mỹ), việc đánh bắt cá quá nhiều và xây dựng đảo của Trung Quốc đã tàn phá hệ sinh thái ở Biển Đông. Ngư dân Trung Quốc đánh bắt sỏ quá nhiều từ những rạn san hô đã tạo ra sự tàn phá đối với san hô mà phải mất đến 20 năm mới tự phục hồi được. Sau đó, các nhà chức trách Trung Quốc tuyên bố bãi san hô chết và bắt đầu nạo vét, xây dựng đảo trên những rạn san hô này. Một khi bê tông và cát được đổ xuống thì sự tàn phá này là không thể phục hồi nổi.
Các học giả và lãnh đạo chính trị đã đưa ra một số đề xuất nhằm bảo vệ sự đa dạng sinh thái ở Biển Đông. Năm 1992, ông McManus đề nghị thiết kế quần đảo Trường Sa thành một công viên sinh thái quốc tế do tất cả các bên tranh chấp quản lý. Tháng 11/2016, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte dự định tuyên bố đơn phương bãi cạn Scarborough là một khu bảo tồn sinh vật biển. Những đề xuất này có vẻ như dễ thất bại do nhiều tuyên bố chủ quyền chồng lấn giữa các bên và sự khó khăn trong thực thi các quy định về bảo vệ môi trường.
Chính phủ Trung Quốc có thể được khuyến khích thực thi các hoạt động sửa chữa lại những tàn phá mà họ đã gây ra trên Biển Đông. Rõ ràng là luật pháp quốc tế không có hiệu lực ở đây vì Trung Quốc không hề thiện chí thực hiện phán quyết của Tòa Trọng tài này. Các tổ chức phi chính phủ về môi trường như Greenpeace, World Wildlife Fund, Conservation International đều có mối liên hệ về tài chính, chính trị với lợi ích của Trung Quốc và vẫn im lặng trước việc Trung Quốc phá hủy các rạn san hô. Bởi vậy cần phải có những cách thức gây áp lực khác.
Trong quá khứ, cách hiệu quả nhất để buộc Trung Quốc phải hành động trong giải quyết vấn đề môi trường là tập hợp dư luận quốc tế. Năm 2006, cựu cầu thủ bóng rổ Yao Ming cùng với tổ chức phi chính phủ WildAid đã dẫn dắt một chiến dịch truyền thông xã hội chống lại việc sử dụng súp vây cá mập – một món cao lương mỹ vị truyền thống của Trung Quốc. Chiến dịch này đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ món súp này, buộc Disneyland Hong Kong phải bỏ nó khỏi thực đơn tiệc cưới và cuối cùng khiến Chủ tịch Tập Cận Bình cấm sử dụng món này trong các buổi tiệc chiêu đãi quốc gia. Yao Ming cùng với WildAid cũng phản đối việc mua bán ngà voi, đóng một phần vai trò quyết định cấm buôn bán ngà voi của Trung Quốc đến cuối năm 2017. Tiếp tục kêu gọi sức ép quốc tế từ Liên hợp quốc và các nước khu vực cũng như các tổ chức phi chính phủ, những người nổi tiếng có nhiều ảnh hưởng có thể tác động đến dư luận Trung Quốc – cũng như điều đã từng xảy ra đối với món súp vây cá mập và buôn bán ngà voi – buộc Chính quyền Trung Quốc phải dừng các hoạt động phá hoại đảo san hô trên Biển Đông.
Các tuyên bố chủ quyền có thể không mấy liên quan tới các thành phần phi nhà nước, dư luận quốc tế và các quốc gia không liên quan trực tiếp tới tranh chấp ở Biển Đông. Nhưng chuyển vấn đề này thành vấn đề môi trường thì có thể mang lại hiệu quả trong tác động đến việc xây dựng đảo của Trung Quốc. Nếu như Mỹ đã từng nhận trách nhiệm và sửa sai khi vô tình phá hủy 25.240 feet vuông (tương đương 7,7 km2) san hô thì chắc chắn Trung Quốc cũng có thể làm như vậy bởi Trung Quốc đã cố ý phá hủy một khu vực gấp tới 43.000 lần khu vực Mỹ vô tình phá hủy. Trung Quốc sẽ buộc phải dừng hoạt động xây đảo nhân tạo và có các biện pháp khôi phục hệ sinh thái đã bị tàn phá ở Biển Đông.

0 nhận xét

Leave a comment

Được tạo bởi Blogger.