Long Xuyên Hải Ngoại

Dù số phận mang tới điều gì,

hãy can đảm tranh đấu cho quê hương tự do

Tin Biển Đông – 15/05/2019

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2019 19:46 // ,

Tin Biển Đông – 15/05/2019

Tàu chiến Mỹ – Trung gặp nhau “chan chát”


trên Biển Đông


Tần suất các vụ chạm mặt giữa hai bên nhiều đến nỗi các chỉ huy trên tàu chiến Mỹ không cần đợi cũng biết phía Trung Quốc sắp sửa nói gì.

Những âm thanh phát ra từ bộ đàm khi đi ngang Biển Đông đã trở thành điều quen thuộc với Hạm trưởng Eric Anduze, người đứng đầu soái hạm USS Blue Ridge của Hạm đội 7, Mỹ.

“Họ sẽ liên lạc với chúng ta rồi rời đi ngay – ‘Tàu của chính phủ Mỹ, đây là tàu Hải quân Trung Quốc (số hiệu gì gì đó) – Chúng tôi sẽ giữ khoảng cách cỡ 5 dặm (8km) với các ông và sẽ hộ tống các ông trong lúc các ông di chuyển qua khu vực”. Hạm trưởng Mỹ nhắc lại thông báo từ tàu Trung Quốc.

Quả thật, một tàu chiến Trung Quốc sau đó đã liên lạc và nói lại những lời giống như ông Anduze kể.

Câu trả lời của Mỹ rất ngắn gọn: “Tàu Trung Quốc, đây là tàu chính phủ Mỹ số hiệu 19, hết!”. Mọi thứ trong đài chỉ huy rơi vào im lặng nhưng bên ngoài, ai cũng biết nước biển đang đập vào hai thân tàu đang bám sát và đuổi nhau như hình với bóng.

Những màn đối đáp nghe có vẻ bình thường như ở trên lại là một cuộc chiến tâm lý giữa hai lực lượng hải quân lớn nhất thế giới, báo Japan Times bình luận.

Để giúp truyền thông hiểu rõ hơn vấn đề, một nhóm các nhà báo đã được mời lên đài chỉ huy trong lúc USS Blue Ridge di chuyển ngang qua Biển Đông để đến Singapore.

Với cảng nhà đặt tại Nhật Bản, tàu USS Blue Ridge thường xuyên ngang dọc Biển Đông, vì thế những vụ chạm mặt với Hải quân Trung Quốc là không thể tránh khỏi.

Dù đã được biên chế 50 năm, với hệ thống máy tính hiện đại, USS Blue Ridge được mệnh danh là người đi đến đâu biết đến đó. Nó có thể cung cấp cho Hải quân Mỹ các hình ảnh chiến thuật hoàn hảo ở những nơi nó đi qua.

Kể từ tháng 2 năm nay, soái hạm của Hạm đội 7 đã chạm mặt và được “hộ tống” bởi tàu Trung Quốc ít nhất 6 lần và không lần nào giống lần nào.

“Có những lúc tàu chiến Trung Quốc chỉ cách chúng tôi khoảng 3 dặm (4km). Họ tò tò theo chúng tôi cho đến khi chúng tôi ra khỏi khu vực. Dù là vậy nhưng không có gì là không an toàn”, chỉ huy Anduze kể lại nhưng từ chối kể về những lần chạm mặt “quyết liệt hơn”.

Hồi tháng 9 năm ngoái, một tàu khu trục Trung Quốc đã áp sát tàu khu trục USS Decatur ở khoảng cách chưa đầy một sân bóng đá (dưới 100m), một hành động mà Mỹ gọi là “không an toàn và thiếu chuyên nghiệp”. Động thái mang tính răn đe của Trung Quốc dường như không làm Mỹ ngừng các chiến dịch mà Wahsington gọi là “đảm bảo tự do hàng hải”.




Hoa Kỳ: Trung Quốc quá chú ý


đến các hoạt động của Hải Quân Hoa Kỳ ở Biển Đông


Đô Đốc John Richardson, Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ, vào ngày 15 tháng 5 nói với các phóng viên bên lề Hội nghị Quốc phòng Hàng hải ở Singapore rằng các hoạt động tự do hàng hải của Mỹ ở vùng Biển Đông đang tranh chấp được chú ý nhiều hơn mức cần thiết.

Hoa Kỳ vào ngày thứ hai tuần trước đã điều hai tàu chiến đi gần các đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Đây là động thái khiến Bắc Kinh tức giận và phủ nhận ‘việc đi qua không gây hại” của hai tàu Mỹ gần đá Ga Ven và Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa.

Đô đốc Richardson cho rằng hoạt động của Hải quân Mỹ ở vùng nước tranh chấp đã được báo chí chú ý quá mức và đôi khi Trung Quốc cũng chú ý tới các hoạt động này ở mức không cần thiết.

Trong một bài phát biểu trước đó, Đô Đốc Richardson nói rằng các hoạt động hải quân của Hoa Kỳ đã được thực hiện ổn định trong nhiều thập kỷ và không gia tăng trong thời gian gần đây.

Bắc Kinh lên án Hoa Kỳ xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc và gây bất ổn cho an ninh khu vực Biển Đông. Bắc Kinh cho rằng hoạt động tự do hàng hải của Hoa Kỳ nhằm mục đích thách thức những hoạt động của Trung Quốc hạn chế tự do di chuyển trong vùng biển chiến lược.

Hoa Kỳ đã chỉ trích việc Trung Quốc xây dựng và lắp đặt các cơ sở quân sự, các đài khí tượng và bến cảng trên các bãi đá, rạn san hô và bãi cạn.

Trung Quốc là nước tuyên bố chủ quyền hầu hết vùng Biển Đông, nơi các nước trong khu vực như Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam cũng có tranh chấp.




Vị trí, tầm quan trọng và lợi ích


của Malaysia ở Biển Đông


Lợi ích Biển Đông của Malaysia chủ yếu thể hiện ở 3 phương diện là ngành năng lượng, tuyến đường thương mại quốc tế và an ninh quốc phòng.

Biển Đông là đầu mối giao thông trên biển nối liền 2 đại dương và liên kết 3 châu lục, chiếm một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, là một trong những tuyến đường năng lượng huyết mạch quan trọng trên thế giới, đồng thời được coi là “Vịnh Persian thứ hai” bởi ẩn chứa nguồn dầu khí phong phú. Tổng diện tích của Biển Đông khoảng 3,5 triệu km2. Tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông liên quan và bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.

Vấn đề Biển Đông do bao gồm rất nhiều lĩnh vực như địa lý, lịch sử, chính trị, ngoại giao, luật pháp, bản thân nó cũng mang tầm quan trọng và độ phức tạp lớn. Trong những năm gần đây, lập trường của Chính phủ Malaysia trong vấn đề Biển Đông tương đối khiêm tốn, do đó mức độ quan tâm của vấn đề này của truyền thông và giới học giả trong nước tương đối thấp.

Yêu sách về chủ quyền và lợi ích Biển Đông của Malaysia

Là một quốc gia biển điển hình, có đường bờ biển kéo dài, toàn bộ bờ biển phía Đông của Tây Malaysia cũng nhưu phía Bắc và phía Tây của Đông Malaysia, và khu vực biển gần đó đều thuộc Biển Đông. Đối với một Malaysia mà nền kinh tế quốc dân ở một mức độ lớn dựa trên tài nguyên dầu mỏ và thủy hải sản, Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt.

Lợi ích Biển Đông của Malaysia chủ yếu thể hiện ở 3 phương diện là ngành năng lượng, tuyến đường thương mại quốc tế và an ninh quốc phòng. Là nước sản xuất dầu khí lớn thứ hai ASEAN và nước xuất khẩu khí đốt lớn thứ 3 thế giới, gần như tất cả nguồn dầu khí của Malaysia đều đến từ Biển Đông.

Đầu tiên, tài nguyên dầu khí ở Biển Đông là trụ cột quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia của Malaysia. Số liệu chi tiết về “trữ lượng dầu thô và khí đốt của các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông” do Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) công bố hồi tháng 4/2013 cho thấy, trữ lượng dầu khí của vùng biển mà Malaysia chiếm giữ là cao nhất tại Biển Đông. Từ những năm 70 của thế kỷ trước, trong số những nước xung quanh Biển Đông tranh giành nguồn dầu khí ở Biển Đông, Malaysia hành động sớm, tiến hành nhanh chóng, trở thành nước khai thác dầu khí nhiều nhất, hưởng lợi nhất ở Biển Đông. Năm 2009, sản lượng dầu của Malaysia ở Biển Đông vượt quá 30 triệu tấn, khí tự nhiên đạt gần 150 triệu m3. Đến năm 2014, số lượng giếng dầu mà Malaysia khai thác ở khu vực quần đảo Trường Sa lên đến gần 90 giếng, chiếm hơn một nửa so với tổng số giếng mà các nước Trung Quốc, Việt Nam, Philippines và Malaysia khai thác.

Là một quốc gia biển điển hình, kinh tế biển là một phần quan trọng trong việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước của Malaysia, mà khai thác nguồn tài nguyên dầu khí của Biển Đông lại là nguồn thu nhập quan trọng của quốc gia. Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, thu nhập từ dầu mỏ đã chiếm khoảng 20% thu nhập quốc gia của Malaysia. Số liệu thống kê và báo cáo phân tích của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ cho thấy trữ lượng dầu mỏ của Malaysia đứng vị trí thứ tư khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Malaysia từ đó hy vọng phát triển thành trung tâm dự trữ, thương mại, phát triển dầu mỏ và khí tự nhiên của châu Á, điều này sẽ thu hút kỹ thuật chuyên nghiệp và dịch vụ hạ tầng có sức cạnh tranh. Đó chính là dựa vào nguồn dầu khí phong phú, Malaysia đưa ra “Tầm nhìn 2020”, mục tiêu chung của kế hoạch này là vào năm 2020 bước vào hàng ngũ các nước phát triển. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ trình độ

công nghiệp hóa đất nước, thực hiện chuyển đổi nền kinh tế quốc gia, và trong ngành công nghiệp năng lượng, mục tiêu của Malaysia là xây dựng nền tảng thương mại và dự trữ năng lượng của châu Á, phát triển thành cường quốc năng lượng châu Á.

Có thể nói, “Tầm nhìn 2020” bắt đầu được đề xuất từ thời Mahathir bin Mohamad luôn là lá cờ tiên phong trong việc phát triển kinh tế của Malaysia, trong nhiều thập kỷ ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển trong mọi lĩnh vực của Malaysia. Tuy nhiên, nhìn vào hiệu quả kinh tế của Malaysia những năm gần đây thì ý nguyện này khó mà đạt được. Ngay sau đó vào đầu năm 2017, Thủ tướng đương nhiệm Najib Razak đề xuất “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050” để thay cho “Tầm nhìn 2020”. Mục tiêu thiết lập của “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050” là năm 2050, Malaysia sẽ trong danh sách 20 nước đứng đầu về kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên cho dù là “Tầm nhìn 2020” hay “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050”, thì việc thực hiện các mục tiêu to lớn này ở một mức độ rất lớn được quyết định bởi sự phát triển ổn định của ngành năng lượng Malaysia, mà Biển Đông lại là nguồn khai thác chủ yếu tài nguyên dầu khí của nước này. Về ý nghĩa này, Biển Đông là lợi ích then chốt của Malaysia.

Thứ hai, Biển Đông là một kênh quan trọng để Malaysia triển khai thương mại quốc tế. Biển Đông phía Đông tiếp giáp Thái Bình Dương, phía Tây tiếp nối với Ấn Độ Dương, tuyến đường Nam – Bắc của Biển Đông lại nối liền với khu vực Đông Á và châu Đại Dương. Vùng biển này là đầu mối thương mại trọng yếu của ASEAN, châu Á và khu vực châu Á – Thái Bình Dương, mà thương mại châu Á – Thái Bình Dương rõ ràng đã trở thành động cơ mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế và thương mại khu vực. Các nước Đông Nam Á dựa vào Biển Đông để phát triển thương mại với Đông Á, Nam Á, Trung Đông và phương Tây, mạng lưới thương mại này nhờ Biển Đông mới có thể tồn tại. Malaysia ở vào vị trí xung yếu về giao thông giữa phương Đông và phương Tây, từ xa xưa đã chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong mạng lưới thương mại quốc tế, và sự phát triển kinh tế của Malaysia ngày nay cũng phụ thuộc rất nhiều vào thương mại quốc tế. Là một trong những nước ven Biển Đông, Malaysia hiểu rõ được tầm quan trọng của vùng biển này đối với kinh tế khu vực và thương mại toàn cầu.

Ngoài ra, cùng với việc mức độ phụ thuộc của kinh tế Malaysia vào thương mại quốc tế ngày càng cao, Biển Đông là tuyến đường thương mại trên biển, đem lại nguồn lợi nhuận ổn định cho Malaysia, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Malaysia.

Thứ ba, thu nhập từ nguồn dầu khí Biển Đông đã nâng cao mức độ bảo vệ an ninh quốc phòng của Malaysia, đem lại năng lực và sự bảo đảm trong việc bảo vệ an ninh vùng biển tuyên bố chủ quyền của nước này. Những năm 70 của thế kỷ 20, các nước như Anh, Mỹ sau khi rút quân khỏi Đông Nam Á, để nâng cao mức độ phòng vệ của mình, Malaysia bắt đầu nhanh chóng phát triển lực lượng hải quân và không quân của nước này, chuyển hướng trọng tâm phòng vệ từ an ninh trong nước sang an ninh khu vực, và đặc biệt coi trọng an ninh vùng biển tuyên bố chủ quyền. Đến cuối những năm 1970, sức mạnh của hải quân Malaysia đã có sự cải thiện đáng kể, nhận thức về mở rộng trên biển theo đó cũng được tăng cường. Đồng thời, để nâng cao địa vị quốc tế của mình, Malaysia bắt đầu nỗ lực cho một sự phát triển sức mạnh hải quân và không quân mới, tuyên bố phải xây dựng một hải quân hiện đại hóa khiến mọi người kinh ngạc. Đến những năm 1990, trọng tâm chính sách quốc phòng của Malaysia đã hoàn toàn chuyển hướng sang biển. Đặc biệt là từ cuộc xung đột trên biển nỗ ra giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988, xuất phát từ suy tính bảo vệ quyền lợi Biển Đông, Malaysia đã đặt vị trí của quần đảo Trường Sa từ thứ hai lên thành ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch quốc phòng, và phát triển sức mạnh hải quân cũng trở thành lựa chọn quan trọng để nước này duy trì quyền lợi biển của chính phủ khóa trước.

Từ những năm 1990, Malaysia đẩy nhanh tốc độ xây dựng lực lượng biển, nỗ lực xây dựng một đội ngũ hải quân hiện đại. Sau khi bước vào thế kỷ mới, đặc biệt là 10 năm trở lại đây, Malaysia tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự. Số liệu thống kê năm 2011 cho thấy tổng quân số của hải quân Malaysia là hơn 10000; trang bị vũ khí vượt xa Việt Nam và Philippines. Malaysia còn có hai chiếc tàu ngầm điện – diesel lớp Scorpene, mang tên của hai vị tổng thống đầu tiên và thứ hai của Malaysia, có thể thấy chính phủ nước này rất kỳ vọng vào nó.

Nói về tình hình Biển Đông, Malaysia đã chiếm đóng trái phép một số hòn đảo và rạn san hô thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nhưng những hòn đảo này nằm ở phía Đông Nam của Biển Đông, cách xa lãnh thổ của họ, lực lượng phòng vệ rất yếu, không có lực lượng hải quân và không quân có sức răn đe mạnh mẽ để hậu thuẫn phòng vệ, đương nhiên là không thể duy trì được. Nhìn vào vị trí những hòn đảo mà Malaysia hiện đang chiếm đóng trái phép, rất có khả năng xảy ra xung đột tại khu vực Đá Công Đo, Đá Hoa Lau, Đảo An Bang của các nước đòi hỏi chủ quyền khác. Vùng Biển này là vị trí hàng đầu liên quan đến tranh chấp quyền lợi biển của Malaysia, một khi xảy ra xung đột quân sự, không cần nghi ngờ gì nữa, chắc chắn phải dựa vào lực lượng hải không và không quân giải quyết, việc này đòi hỏi Malaysia cần phải có lực lượng hải – không quân mạnh mẽ. Nhưng phát triển một lực lượng hải – không quân mạnh mẽ cần phải có sự hỗ trợ kinh tế hùng hậu, sự hỗ trợ này ở một mức độ rất lớn có được từ việc khai thác nguồn dầu khí ở Biển Đông. Thu nhập từ dầu khí ở Biển Đông giúp cho việc nâng cao năng lực phòng vệ, bảo vệ an ninh vùng biển đòi hỏi chủ quyền. Malaysia nhiều năm nay ra sức phát triển lực lượng hải – không quân cũng là vì bảo vệ lợi ích đã đạt được tại Biển Đông. Có thể nói, lợi ích kinh tế và bảo vệ an ninh tại Biển Đông của Malaysia là sự củng cố và hỗ trợ lẫn nhau.

Tuyên bố chủ quyền Biển Đông của Malaysia

Có thể nói, lợi ích Biển Đông to lớn là nguyên nhân chính để Malaysia đề xuất và kiên trì tuyên bố chủ quyền Biển Đông. Tuy nhiên, cũng giống những nước Đông Nam Á đòi hỏi chủ quyền khác, trước những năm 70 của thế kỷ 20, Malaysia chưa đưa ra kiến nghị gì đối với Trung Quốc về việc sử dụng chủ quyền ở quần đảo Trường Sa và vùng biển lân cận. Cũng có thể nói là một giai đoạn tương đối dài sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cái gọi là tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc và Malaysia là không tồn tại, và nguồn gốc của tranh chấp bắt nguồn từ một tấm bản đồ ranh giới lãnh hải và thềm lục địa mới xuất bản năm 1979 của Malaysia.

Tấm bản đồ mới với tỷ lệ 1:150 này ghi rõ ranh giới tuyên bố chủ quyền thềm lục địa của hai bang Sabah và Sarawak của Đông Malaysia, đưa 12 hòn đảo phía Đông Nam Biển Đông vào phạm vi tuyên bố chủ quyền của mình. 12 hòn đảo này và vùng lãnh hải của nó đều đang có tranh chấp lãnh thổ với các nước đòi hỏi chủ quyền khác.



Trước những năm 1980, Malaysia vẫn chưa đưa quân đến xâm lược các hòn đảo ở Trường Sa, mà đẩy nhanh lập pháp biển trong nước, đồng thời phân vùng lãnh hải liên quan, tiến hành mời gọi đấu thầu dầu khí bên ngoài, nhằm thu được lợi ích từ thăm dò dầu khí phi pháp ở vùng biển Trường Sa. Ngày 28/7/1966, Malaysia dựa trên “Công ước luật biển Genève” năm 1958 phát hành “luật thềm lục địa”, tuyên bố đường ranh giới hoặc độ sâu cho phép khai thác là 200m bên ngoài thềm lục địa, sau đó năm 1972 đã chỉnh sửa, năm 2009 trình lên quốc hội “luật thềm lục địa” (bản chỉnh sửa). Malaysia căn cứ vào đó đưa ra ranh giới thềm lục địa của nước này bao gồm phía Nam của quần đảo Trường Sa, có thể nhìn thấy từ phía Tây Bắc của bang Sabah. Năm 1969 Malaysia còn công bố “Pháp lệnh khẩn cấp số 7”, pháp lệnh này do nguyên thủ tối cao ký kết, quy định bề rộng lãnh hải của Malaysia là 12 hải lý.

Vào những năm 1970, Malaysia bắt đầu bằng phương thức xuất bản đồ và lập pháp để đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với một số hòn đảo và lãnh hải ở Trường Sa. Sau khi công bố tấm bản đồ nói trên vào tháng 12/1979, ngày 25/4/1980 Malaysia lại đưa ra “Tuyên bố của quốc vương Malaysia Sultan Haji Ahmad Shah”, đề xuất thành lập vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế và ranh giới bên ngoài thềm lục địa mà họ quan niệm về cơ bản là giống nhau. Năm 1984, Malaysia công bố “Luật vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia”, và dựa vào luật này đã đưa các đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà nằm trong vùng đặc quyền 200 hải lý vào phạm vi quản lý của Malaysia. Theo ước tính, tổng diện tích của Vùng đặc quyền kinh tế Malaysia là 475.741 km2, sự mở rộng Vùng đặc quyền kinh tế này cơ bản là khu vực gần biển của hai bang  Sabah và Sarawak phía Đông Malaysia, điều này đương nhiên nảy sinh sự chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng đã tuyên bố chủ quyền và tranh chấp là điều không thể tránh khỏi.

Để củng cố chủ quyền đã tuyên bố của mình, Malaysia từ năm 1983 đến năm 1999 đã sử dụng vũ trang chiếm trái phép 5 hòn đảo thuộa quần đảo Trường Sa của Việt Nam, và lần lượt cho quân chiếm đóng tại 5 hòn đảo này, xây dựng nơi đóng quân.

Xu hướng chính sách của Malaysia

Để bảo vệ yêu sách “chủ quyền” và lợi ích ở Biển Đông, xu hướng chính sách của Malaysia xoay quanh một số vấn đề: (1) Bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của Malaysia ở Biển Đông; (2) Thúc đẩy phối hợp với các nước liên quan tranh chấp chủ quyền trong khu vực và kêu gọi ASEAN đóng vai trò dẫn dắt và chủ động trong việc xử lý mọi tình huống trên Biển Đông. (3) Tìm cách thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các nước lớn trong cả lĩnh vực chiến lược và kinh tế. Điều này được thể hiện bằng việc Malaysia cam kết duy trì sự trung lập và kêu gọi sự tham gia của tất cả các tác nhân, đồng thời nhấn mạnh vai trò của việc tham vấn, củng cố vai trò trung tâm của ASEAN cũng như mở rộng chủ nghĩa đa phương của tổ chức khu vực này trên nhiều tầng nấc. (4) Tăng cường hợp tác, giao lưu hải quân với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm thúc đẩy sự tin cậy chính trị, nâng cao năng lực hải quân và khả năng ứng phó với những tình huống đột xuất trên biển. (5) Tìm cách ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.




Một số nét khái quát


 về chính sách Biển Đông của Malaysia


Malaysia là một trong 5 nước tồn tại tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Trong nhiều năm qua, Malaysia đã tích cực thực thi chính sách Biển Đông nhằm bảo vệ “chủ quyền” và lợi ích của mình trong khu vực.

Kể từ cuối những năm 1960, chính sách Biển Đông của Malaysia đã trải qua các giai đoạn khác nhau: giai đoạn sau những năm 1960 bắt đầu thăm dò khai thác dầu khí, đến những năm 1980 bắt đầu chiếm lĩnh các hòn đảo, sau đó là việc xây dựng đảo cũng như không ngừng củng cố và tăng cường công khai chủ quyền…

Cùng với việc xây dựng các giếng dầu ngoài biển, tài nguyên dầu khí của Biển Đông bị khai thác trắng trợn và chuyển về trong nước Malaysia: việc xây dựng 5 căn cứ quân sự trên các đảo chiếm đóng trái phép của Việt Nam, cũng khiến Malaysia từng bước củng cố cũng như mở rộng sự hiện diện về kinh tế và quân sự tại Biển Đông.

Từ trước đến nay, Malaysia thúc đẩy chính sách tương đối khiêm tốn “không đối đầu, không gây chuyện” trong vấn đề Biển Đông, cố gắng tránh xung đột bên ngoài, đặc biệt là xung đột quân sự, mà sử dụng nhiều hơn biện pháp chính trị để đảm bảo duy trì lợi ích vốn có của mình tại Biển Đông. Malaysia ủng hộ đề xướng hợp tác khai thác chung ở Biển Đông, giữ lập kiềm chế trong vấn đề Biển Đông, không ngừng tăng cường xây dựng năng lực quân sự của mình ở khu vực Biển Đông, thúc đẩy hợp tác quân sự với các nước như Mỹ, Việt Nam…

Kiên trì tuyên bố chủ quyền, duy trì thái độ kiềm chế

Nhiều năm nay, về tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, Malaysia một mặt hoàn toàn không buông lỏng tuyên bố chủ quyền của mình, từ những năm 1980 đến nay, chính phủ qua các nhiệm kỳ luôn kiên trì thái độ không nhượng bộ đối với tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, mặt khác lại luôn lựa chọn thái độ tương đối bình tĩnh ôn hòa, chủ trương bằng phương thức hòa bình, thông qua con đường ngoại giao để giải quyết tranh chấp.

Chính thái độ đối phó thực dụng này khiến Malaysia có thể kiểm soát một cách thực tế các hòn đảo đã chiếm được ở Trường Sa. Nhà nghiên cứu địa chính trị của Học viện không gian địa lý thuộc trường Đại học Khoa học tự nhiên Malaysia, Azmi Hassan thậm chí gọi biện pháp ngoại giao này của Malaysia là “hình mẫu ngoại giao”. Ông nói, so với xung đột do đảo Hoàng Nham giữa Trung Quốc và Philippines, Malaysia xử lý ổn thỏa tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Phương thức đối phó “đối kháng và xung đột” mà Philippines lựa chọn khiến họ không thể duy trì được hiện trạng cho đảo Hoàng Nham, trong khi phương thức đối phó theo chủ nghĩa thực dụng mà Malaysia lựa chọn đã thành công trong việc tránh được

xung đột với Bắc Kinh, khiến bãi cạn James đang có sự tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Malaysia vẫn ở trong vòng kiểm soát của Malaysia.

Ngang nhiên khai thác dầu khí, thúc đẩy khai thác chung

Về vấn đề Biển Đông, đồng thời với việc kiên trì giải quyết tranh chấp bằng phương thức ngoại giao, Chính phủ Malaysia chưa từng từ bỏ hoặc ngừng khai thác nguồn dầu khí ở khu vực đã chiếm lĩnh được ở Biển Đông.

Giành được điều kiện khai thác dầu khí đặc biệt, từ những năm 1970 Malaysia bắt đầu hợp tác với những hãng dầu khí quốc tế lớn, liên tục khai thác nguồn dầu khí ở Biển Đông. Năm 1972, ngoài khơi bờ biển Sabah và Sarawak, lần đầu tiên phát hiện ra dầu mỏ. Ngay sau đó, rất nhiều giếng dầu được xây dựng tại đây, khai thác dầu mỏ triển khai từ đó. Theo thống kê, tổng lượng dầu mỏ của những giếng dầu này gấp hai lần nhu cầu tiêu thụ trong nước khi đó của Malaysia. Cho đến năm 1980, công suất lọc dầu mỗi ngày ở mức 280 đên 300 nghìn thùng, tương đương với 40.000 tấn. Dầu khí đã trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Malaysia. Khí hóa lỏng cũng bắt đầu xuất khẩu từ năm 1983, các nhà máy khí hóa lỏng được xây dựng ở Bintulu bờ biển Trung bộ Sarawak. Cho đến năm 2011, Malaysia khai thác tổng cộng 18 mỏ dầu và 40 mỏ khí tại vùng biển năm trong “đường 9 đoạn” trên Biển Đông của Trung Quốc. Sản lượng dầu khí mỗi năm vượt 30 triệu tấn, sản lượng khí đốt gần 150 triệu m3/năm. 70% lượng dầu khí xuất khẩu của Malaysia đến từ vùng biển thuộc “đường 9 đoạn” trên Biển Đông.

Đồng thời với việc không ngừng khai thác trắng trợn nguồn dầu khí Biển Đông. Thủ tướng Najib Razak (6/2011) đề nghị các nước liên quan thanh lập một cơ quan chuyên môn để thúc đẩy các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông hợp tác khai thác tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là dầu lửa ở khu vực này. Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia khi đó là ông Ahmad Zahid Hamidi nói với truyền thông: “Đối với chúng tôi, công việc quan trọng nhất không phải là đánh thắng được bao nhiêu trận, mà là tránh được bao nhiêu cuộc chiến tranh. Cố gắng để có thể tránh được khủng hoảng, xung đột hoặc chiến tranh mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng tôi. Hiện nay trong khu vực Biển Đông, vấn đề tranh chấp lãnh thổ mà các nước đang đối mặt ở một mức độ rất lớn phát sinh từ lợi ích kinh tế. Và biện pháp giải quyết chính là tiến hành hợp tác khai thác cùng có lợi”. Ông còn lấy vị dụ hai nước Malaysia và Ấn Độ cùng đánh bắt cá trong vùng biển đang tranh chấp chủ quyền để minh họa cho tầm quan trọng của hợp tác cùng có lợi.

Ngoài ra, Malaysia còn đề xướng dựa vào phương thức tổ chức “Cơ chế cho vay với mục đích đặc biệt” (SPV) để tiến hành khai thác chung nguồn dầu khí. SPV có nghĩa là xây dựng một “công ty mục đích đặc thù”, để các nước liên quan tham gia vào đó bằng hình thức cổ phần. Tiến hành khai thác chung tài nguyên bằng phương thức này, Malaysia có thể coi là có kinh nghiệm thành công. Hai nước Malaysia và Thái Lan đã thành công trong việc triển khai các dự án liên quan về khai thác chung trong khi vực biển tranh chấp phía Nam vịnh Thái Lan, dự án này trở thành trường hợp thành công đầu tiên của Đông Nam Á trong việc “gác lại tranh chấp, cùng khai thác chung” tài nguyên trên biển.

Theo quan điểm này, Malaysia ra sức khuyến khích các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông gác lại tranh chấp lãnh thổ, tránh xung đột vũ trang, tiến hành khai thác chung ở Biển Đông, để theo đuổi hợp tác cùng thắng về mặt kinh tế.

Kiên trì “Ngoại giao thầm lặng”, tránh xung đột quân sự

Cùng với việc tình hình căng thẳng ở Biển Đông gia tăng, sự cảnh giác của Malaysia đối với Trung Quốc tăng lên rõ rệt. Thứ trưởng Ngoại giao Malaysia Hamzah Zainuddin khi trả lời câu hỏi của quốc hội vào ngày 15/6/2015 cho biết, các nước ASEAN bao gồm cả Malaysia không công nhận tuyên bố chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc dựa trên “đường 9 đoạn”, bởi vì tuyên bố này không phù hợp với “Công ước Liên hợp quốc về luật biển” và các luật pháp quốc tế liên quan. Đồng thời, Malaysia tiếp tục dựa trên “ngoại giao thầm lặng” để đối phó với những thay đổi của tình hình Biển Đông. Cái gọi là “ngoại giao thầm lặng” thực chất là sách lược ngoại giao dựa trên nguyên tắc cốt lõi “không đối kháng, tránh xung đột”. Sách lược này cũng là một “biện pháp cân bằng” mà Malaysia đã sử dụng để đối phó với tình hình Biển Đông đầy phức tạp và biến động.

Khi tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 23 tại Manila, Thủ tướng Najib (11/2015) đã có cuộc hội đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình. Najib sau đó đã bày tỏ với báo chí rằng trong cuộc hội đàm Chủ tịch Tập Cận Bình đã tán thành chính sách “ngoại giao thầm lặng” mà Chính phủ Malaysia đã lựa chọn trong vấn đề Biển Đông. Các học giả phương Tây chỉ ra rằng Malaysia cho rằng chủ nghĩa dân tộc cấp tiến sẽ hạn chế các lựa chọn chiến lược của chính phủ và làm tổn hại đến quan hệ song phương. Bắc Kinh cũng qua các kênh công khai và nội bộ tán thành “sách lược thầm lặng” mà Chính phủ Malaysia lựa chọn, trong vấn đề Biển Đông thái độ đối với Malaysia cũng ôn hòa hơn nhiều so với Việt Nam và Philippines.

Một số tuyên bố đáng chú ý của Malaysia về vấn đề Biển Đông

Từ khi lên cầm quyền đến nay, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã có nhiều tuyên bố, hành động cụ thể khẳng định sẽ làm hết sức để bảo vệ chủ quyền, lợi ích của Malaysia ở Biển Đông và phản đối các hành động phi pháp, đe dọa sử dụng vũ lực hay quân sự hóa trong khu vực, cụ thể: (1) Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (14/8) tuyên bố Malaysia “ủng hộ việc các tàu biển, kể cả chiến hạm, di chuyển qua Biển Đông, nhưng phản đối việc triển khai lực lượng đóng quân tại đó”; lên tiếng cảnh báo việc quân sự hóa trong khu vực tranh chấp ở Biển Đông có thể sẽ gây nên chạy đua vũ trang không lành mạnh. Ông Mahathir cũng tố cáo Mỹ can thiệp vào các tranh chấp thuần túy của châu Á với việc thường xuyên cho tàu chiến, máy bay triển khai hoạt động cũng như việc Trung Quốc cho tàu tuần tra trong vùng. Ian Storey, chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông, cho rằng ông Mahathir sẽ cứng rắn với các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông hơn so với người tiền nhiệm, vốn bị coi là nhượng bộ Bắc Kinh và Malaysia sẽ quyết tâm cao để bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của nước này trên Biển Đông. (2) Ông Mahathir Mohamad tuyên bố, Trung Quốc cần tôn trọng quyền tự do đi lại trên Biển Đông của tàu bè tất cả các nước và Trung Quốc chớ nên gây căng thẳng không cần thiết ở vùng biển này. (3) Ngoài ra, ông Mahathir Mohamad cũng đang tìm cách giảm sự ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nền kinh tế Malaysia bằng cách tăng cường hợp tác với các nước (ASEAN, Mỹ và Nhật Bản) và xem xét, hủy một dự án do các công ty Trung Quốc tài trợ. Hành động này của Malaysia có thể sẽ góp phần thúc đẩy nước này có thái độ cứng rắn hơn với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Trong chuyến thăm Trung Quốc 5 ngày (17-21/8), Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã tuyên bố hủy bỏ dự án đường sắt cao tốc và hai đường ống dẫn năng lượng trị giá 22 tỷ USD với Trung Quốc.Theo tính toán của các chuyên gia, chỉ riêng việc phá vỡ hợp đồng dự án Đường sắt bờ biển phía Đông (ECRL), phía Malaysia sẽ phải bồi thường cho các công ty Trung Quốc khoảng 5,5 tỷ USD.

Trước đó, tờ New Straits Times của Malaysia (2/3) đăng bài viết cho rằng Malaysia có quyền yêu sách ở quần đảo Trường Sa. Bài viết cho rằng theo luật biển, Malaysia có quyền yêu sách lãnh thổ trong phạm vi biên giới hợp pháp của mình ở Biển Đông, bao gồm các đảo, bãi cạn, bãi ngầm của quần đảo Trường Sa. Theo Chuẩn đô đốc đã nghỉ hưu Tan Sri K. “Bob” Thanabalasingam của Hải quân hoàng gia Malaysia, các yêu sách của nước này là “không thể bác bỏ được, trừ những khu vực có chồng lấn yêu sách với các nước láng giềng” bởi các yêu sách của Malaysia hoàn toàn phù hợp với Công ước Luật Biển 1982. Ông Thanabalasingam cho rằng, yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc là phi pháp vì không có điều khoản nào trong luật nói về quyền lịch sử. Theo ông Thanabalasingam, các yêu sách của Trung Quốc rất nực cười vì họ mở rộng ra đến tận vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, gần với lãnh hải của Sabah và Sarawak. “Thậm chí, nếu quay trở lại cách đây 100 hay 1000 năm, họ chưa bao giờ thực thi yêu sách của mình”. Theo một chuyên gia phân tích quốc phòng, Malaysia tỏ ra nghiêm túc trong vấn đề Trường Sa từ khi Thủ tướng Mahathir lên nắm quyền nhiệm kỳ đầu tiên.

Phát biểu tại Bộ Quốc phòng ngày 21/2 vừa rồi, Thủ tướng Mahathir cho rằng, với vị trí chiến lược, Malaysia phải đối mặt với nhiều đe dọa từ các cường quốc, và đây là lúc nước này “cần thực hiện chính sách ngoại giao phù hợp mà không phải đánh đổi chủ quyền”. Martin A. Sebastian, Giám đốc Trung tâm An ninh biển và Ngoại giao thuộc Viện Biển Malaysia, ủng hộ quan điểm của Thủ tướng Mahathir, cho rằng Malaysia đã xây dựng các căn cứ quân sự ở Trường Sa từ những năm 1980-1990 để khẳng định chủ quyền của mình; dù hiện nay các nước xây dựng tại các đảo nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, Kuala Lumpur sẽ duy trì nguyên trạng để cùng tồn tại hòa bình. Ông Sebastian cũng cho biết, Malaysia nên bảo vệ các nguồn sinh vật biển ở Biển Đông, đồng thời kêu gọi các cơ quan

chức năng chống lại hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp ở Trường Sa vì điều này sẽ gây xói mòn và tổn hại môi trường.

Đáng chú ý, phát biểu trước chuyến thăm của Thủ tướng Malaysia Mahathir tới Trung Quốc, Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah (24/4) cho biết, chính phủ Trung Quốc đang muốn bàn về các vấn đề an toàn và an ninh ở Biển Đông trong các cuộc gặp chính thức với Malaysia. Tuy nhiên, Malaysia ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN khi thảo luận với Trung Quốc. Ông Saifuddin Abdullah nhấn mạnh rằng Thủ tướng Mahathir đã nói rõ quan điểm về vai trò trung tâm của ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc.




Chuyên gia Mỹ: Việt Nam là đối thủ lý tưởng


để Trung Quốc “luyện binh”



Trung Quốc ngày càng lộ rõ ý đồ muốn dùng sức mạnh để đánh chiếm Đài Loan, và nếu cần, đánh bật Mỹ và các đồng minh đến cứu viện. Bên cạnh đó, Quân Đội Trung Quốc đang ráo riết rèn luyện để trở thành một đạo quân có “đẳng cấp thế giới”, tức là ngang hàng với Quân Đội Hoa Kỳ. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc rất cần kinh nghiệm thực chiến. Việt Nam, nước sau cùng đánh bại Trung Quốc vào năm 1979, đã trở thành nước mà Bắc Kinh nhòm ngó trong tư cách là đối thủ thực thụ trên chiến trường.

Trong một bài phân tích đăng trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 14/05/2019, ông Derek Grossman, chuyên gia phân tích quốc phòng kỳ cựu tại trung tâm Mỹ Rand Corporation, nguyên là cố vấn cho trợ lý bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đặc trách Châu Á – Thái Bình Dương, đã giả định rằng: “Đến một lúc nào đó, Quân Đội Trung Quốc sẽ cần phải kiểm tra (trên chiến trường) năng lực mới của họ – và Việt Nam hoàn toàn có thể bị coi là đối thủ được ưa thích”.

Bài viết mang tựa đề rất khiêu khích “Việt Nam là nước được Quân Đội Trung Quốc ưa thích trong một trận đánh mang tính chất khởi động – Vietnam is the Chinese military’s preferred warm-up fight”, chuyên gia Mỹ đã nêu bật ba lý do khiến cho Quân Đội Trung Quốc sẵn sàng đánh Việt Nam để gọi là “luyện binh”, chuẩn bị cho cuộc chiến chống Mỹ.

Theo ông Grossman – trong một bài điều trần ngày 07/02/2019 trước Ủy Ban Kiểm Tra Kinh Tế và An Ninh Mỹ-Trung của Quốc Hội Hoa Kỳ, Dennis Blasko, một nhà phân tích kỳ cựu về Quân Đội Trung Quốc đã nhận định rằng lực lượng này hiện đang phải chịu sức ép lớn là phải tăng cường năng lực chiến đấu thông qua các kịch bản huấn luyện chiến đấu thực tế.

Quân Đội Trung Quốc cần có kinh nghiệm thực chiến

Khi chỉ thị cho Quân Đội là phải rèn luyện để trở thành một đạo quân có “đẳng cấp thế giới” vào năm 2050, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có lẽ đã nghĩ đến sự kiện là cuộc chiến lớn sau cùng mà Trung Quốc đã tham gia là cuộc chiến tranh năm 1979 ở vùng biên giới phía bắc Việt Nam, mà Trung Quốc đã thua một cách đáng xấu hổ.

Tuy nhiên, cuộc chiến năm 1979 lại liên quan chủ yếu đến lực lượng bộ binh, chứ không phải là một cuộc chiến mà Bắc Kinh dự trù phải đối mặt hiện nay, dù là để chống lại Đài Loan hay một đối thủ khu vực khác ở Biển Đông hay Biển Hoa Đông, với tất cả hầu như chỉ liên quan tới không quân và hải quân. Do đó, kinh nghiệm chiến tranh lớn cuối cùng của Bắc Kinh gần như không thể áp dụng được. Đây là một lỗ hổng nghiêm trọng và đáng báo động đối với Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc.

Trong tình hình đó, Quân Đội Trung Quốc đã phải nỗ lực tập luyện, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ cần phải kiểm tra hiệu quả của các năng lực mới tiếp thu, và rất có thể họ sẽ muốn chiến đấu với Việt Nam một lần nữa, như là một bài tập khởi động cho các trận chiến lớn hơn, nhưng lần này là ở Biển Đông. Theo ông Grossman, có ít nhất ba lý do khiến cho Việt Nam biến thành điểm nhắm của ý đồ nói trên của Quân Đội Trung Quốc.

Lý do thứ nhất : Chiến trường Việt Nam và Biển Đông thuận lợi cho không và hải quân

Lý do đầu tiên là Trung Quốc cần phải chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh trong lĩnh vực không quân và hải quân.

Nói cách khác, chiến đấu với Ấn Độ ở vùng biên giới trên bộ, trên vùng đồi núi cao của dãy Himalaya, không có lợi chút nào cho Quân Đội Trung Quốc. Một cuộc chiến khác trên Bán Đảo Triều Tiên có thể mang đến một số cơ hội, nhưng vẫn tương đối hạn chế và cá biệt.

Ngược lại, các yêu sách chủ quyền chồng chéo của Trung Quốc với Việt Nam ở Biển Đông và sự xích mích liên tục giữa hai bên đã cung cấp cho Quân Đội Trung Quốc một kịch bản có sẵn để tiến hành các hoạt động chiếm giữ và phòng thủ hải đảo, cùng với các chiến dịch có phối hợp trên biển chống lại một đối thủ khu vực.

Theo Grossman, Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1988 đã từng có một cuộc giao tranh ngắn ngủi tại Đá Gạc Ma (Johnson South Reef), với hệ quả là Bắc Kinh chiếm cứ các thực thể trước đó do Việt Nam kiểm soát. Tuy nhiên, trận đánh đó khác xa với kiểu xung đột mà Quân Đội Trung Quốc cần tiến hành để kiểm tra năng lực thực hiện và duy trì các chiến dịch quân sự có phối hợp.

Gần đây hơn, vào tháng 5 năm 2014, Trung Quốc và Việt Nam đã xung đột với nhau quanh giàn khoan HD-981 mà Bắc Kinh mang vào vùng thềm lục địa của Việt Nam trên Biển Đông. Mặc dù xung đột chỉ diễn ra giữa các lực lượng tuần duyên và tàu cá, nhưng một số lượng hạn chế tàu Hải Quân Trung Quốc cũng đã túc trực gần đó, dự phòng trường hợp leo thang. Lần đụng độ tới đây có thể rất khác.

Lý do thứ hai : Tránh được việc lôi kéo Mỹ vào cuộc chiến

Lý do thứ hai, theo chuyên gia Grossman, là Quân Đội Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ thích lao vào một cuộc chiến không có khả năng lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc.

Do việc Quân Đội Trung Quốc vẫn chưa trở thành đạo quân đẳng cấp thế giới, nên rất hợp lý khi cho rằng Trung Quốc ngay lúc này, chưa sẵn sàng xử lý một kịch bản có Mỹ (cho dù dĩ nhiên họ sẽ chiến đấu, nếu bị bắt buộc). Điều đó có nghĩa là nếu chiến đấu với các nước có hiệp ước an ninh với Mỹ như Úc, Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, có rất nhiều nguy cơ là Trung Quốc phải chạm trán Mỹ, điều mà Bắc Kinh không mong muốn.

Trong số các quốc gia vừa kể, Trung Quốc đang có tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản và Philippines, những tranh chấp có thể dẫn đến xung đột vũ trang. Tuy nhiên, trong trường hợp Nhật Bản, Washington năm 2014 đã nói rõ là việc bảo vệ quyền kiểm soát hành chính của Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư bị Trung Quốc tranh chấp ở Biển Hoa Đông, nằm trong phạm vi áp dụng của hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật.

Tương tự như vậy, vào tháng 3 năm 2019, Hoa Kỳ nhắc lại rằng một cuộc tấn công vào lực lượng vũ trang hoặc tàu thuyền nhà nước của Philippines sẽ kích hoạt Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương Mỹ-Phi. Cho dù cam kết của Hoa Kỳ dường như không nhất thiết bao hàm việc Trung Quốc xâm lược các hòn đảo đang tranh chấp ở Trường Sa, như đảo Thị Tứ, tuy nhiên, điều đó chứng tỏ Washington cũng chú ý đến việc bảo vệ Manila trong khu vực.

Đáng chú ý là sự kiện Washington không có liên minh an ninh chính thức với Đài Loan, một nguy cơ cho đảo này. Điều đó tuy nhiên chỉ đúng trong một chừng mực nào đó, vì Luật Quan Hệ với Đài Loan của Mỹ buộc Washington phải bảo vệ Đài Bắc chống lại sự xâm lược của quân đội Trung Quốc, kể cả khi hai bên không có liên minh quân sự chính thức.

Không giống như các đồng minh của Mỹ trong lãnh vực an ninh, cũng như trường hợp đặc biệt của Đài Loan, Việt Nam sẽ không được Washington hỗ trợ về quân sự.

Chẳng hạn, trong vụ giàn khoan HD-981 tháng 5 năm 2014, Mỹ chỉ ra tuyên bố quy trách nhiệm cho Trung Quốc và kêu gọi cả hai bên duy trì hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế.

Tuy nhiên, quan hệ quốc phòng Hoa Kỳ-Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong những năm gần đây, với một tàu sân bay Mỹ đến thăm Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2018 – lần đầu tiên kể từ khi kết thúc Chiến Tranh Việt Nam.

Dù sao thì chính sách quốc phòng “ba không” của Việt Nam nghiêm cấm các liên minh về an ninh, quân sự, khiến Hà Nội khó có thể tìm cách ngăn chặn Trung Quốc thông qua một tuyên bố chính thức với Washington. Do đó, Bắc Kinh có lẽ đã cảm thấy tương đối yên tâm, vì sự can thiệp của Hoa Kỳ ít có khả năng xảy ra trong trường hợp của Việt Nam.

Lý do thứ ba : Việt Nam có thể bị đánh thắng dễ dàng

Lý do thứ ba và cuối cùng theo chuyên gia Mỹ, là Quân Đội Trung Quốc có lẽ sẽ thích một cuộc chiến tranh mà họ có thể chiến thắng.

Mặc dù đây là một điều hiển nhiên, nhưng lý do này đặc biệt quan trọng do việc Quân Đội Trung Quốc cảm thấy bối rối sau khi bị thua trong cuộc xung đột biên giới năm 1979 chống lại Việt Nam. Cái may mắn cho Quân Đội Trung Quốc vào lúc này là họ sẽ có lợi thế quân sự áp đảo ở Biển Đông.

Đối với chuyên gia Grossman, việc hiện đại hóa quân đội Việt Nam trong những năm gần đây đã hướng đến việc bảo vệ lãnh thổ, và nếu cần thiết, mở một cuộc tấn công bất ngờ và ngoạn mục vào các vị trí của Quân Đội Trung Quốc để buộc Bắc Kinh xuống thang chiến tranh. Nhưng nếu Trung Quốc vượt qua được chiến lược đánh “chảy máu mũi” này, thì Việt Nam không có khả năng duy trì các hoạt động ngang tầm với Trung Quốc, do thiếu người và phương tiện.

Ngoài ra, trong lĩnh vực quan trọng là học thuyết quân sự, Việt Nam chưa bao giờ thực sư chiến đấu trong các lĩnh vực không quân và hải quân (mặc dù cũng phải thừa nhận là Quân Đội Trung Quốc cũng vậy). Điểm đó làm dấy lên hoài nghi lớn về khả năng Hà Nội có thể tiến hành chiến dịch hợp đồng binh chủng từ đầu. Thay vào đó, Việt Nam có thể sẽ tập trung hơn vào việc chống lại các lực lượng dân quân và cảnh sát biển Trung Quốc trong những cái gọi là “vùng xám”, vì đây là kịch bản khả thi nhất trong tương lai.

Dù sao thì việc Việt Nam chỉ là một cường quốc bậc trung, nên dễ bị đánh bại, có thể giúp Tập Cận Bình cải thiện năng lực của Quân Đội Trung Quốc.

Cần theo dõi quan hệ Việt Nam-Trung Quốc tại Biển Đông

Trong phần kết luận, chuyên gia Derek Grossman công nhận rằng các lập luận ông đưa ra mang tính chất cố tình khiêu khích, nhưng dựa trên những sự kiện thực tế và lý luận có cơ sở.

Đối với ông Grossman, Quân Đội Trung Quốc và chính quyền Bắc Kinh có lẽ không tìm kiếm một cuộc chiến với Việt Nam, vì chiến tranh có thể làm gián đoạn nghiêm trọng sự phát triển kinh tế của Trung Quốc và có thể làm tổn hại thêm đến uy tín và mối quan hệ quốc tế của Bắc Kinh với Hoa Kỳ.

Nhưng nếu một tình huống khu vực dẫn đến việc phải sử dụng vũ lực, thì Việt Nam sẽ là địa bàn “khởi động” ưa thích của Quân Đội Trung Quốc, vừa mang lại kinh nghiệm chiến đấu rất cần thiết cho trong các lĩnh vực không quân và hải quân, vừa không sợ bị Mỹ can thiệp, vừa dễ dàng mang lại chiến thắng cho Trung Quốc.

Không có đối thủ nào ngoài Việt Nam có thể mang lại cho Quân Đội Trung Quốc các điều kiện thuận lợi như vậy. Do đó, chúng ta cần phải chú ý hơn trong thời gian tới đây về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam ở Biển Đông.

0 nhận xét

Leave a comment

Được tạo bởi Blogger.