Tin Biển Đông – 08/01/2019
Thứ Ba, 8 tháng 1, 2019
14:28
//
Biển Đông
,
Slider
Bản tin Biển Đông ngày 08/01/2019
Mỹ tiến hành hoạt động tự do hàng hải gần quần đảo Hoàng Sa
Ngày 7/1, Reuters đưa tin, trong khi các quan chức Mỹ đang có cuộc họp về thương mại với các nhà đồng cấp Trung Quốc tại Bắc Kinh, tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Mỹ đã thực hiện hoạt động tự do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý của các cấu trúc thuộc quần đảo Hoàng Sa. Người phát ngôn Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ Rachel McMarr cho biết, hoạt động này nhằm “thách thức các yêu sách biển quá đáng”, không hướng đến một quốc gia cụ thể hay chủ đích đưa ra một tuyên bố chính trị nào.
Phản ứng trước hoạt động của tàu USS McCampbell, tại cuộc họp báo ngày 7/1, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng khẳng định tàu McCampbell đã xâm phạm vào lãnh hải của Trung Quốc quanh quần đảo Hoàng Sa mà không có sự cho phép của Bắc Kinh, tàu Mỹ đã “vi phạm luật pháp Trung Quốc và các luật quốc tế liên quan, xâm phạm chủ quyền Trung Quốc, đe dọa hòa bình, an ninh và trật tự tại vùng biển này”. Ông Lục Khảng cho biết phía Trung Quốc ngay lập tức đã cử tàu và máy bay quân sự ra để xác minh thông tin và phát cảnh báo yêu cầu tàu Mỹ phải rời đi. Trung Quốc kiên quyết phản đối hành động này của Mỹ, thúc giục Mỹ dừng ngay các hoạt động “gây hấn”, đồng thời Bắc Kinh sẽ tiếp tục tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo đảm chủ quyền và an ninh của mình. Ông Lục Khảng cũng cho biết hành động này của Bắc Kinh sẽ tác động đến cuộc hội đàm thương mại Trung – Mỹ đang diễn ra, việc giải quyết tất cả các vấn đề giữa hai bên sẽ có lợi cho hai nước và cho thế giới; cả Trung Quốc và Mỹ đều có trách nhiệm tạo ra bầu không khí tích cực cho cuộc hội đàm.
Nghị sỹ Philippines kêu gọi phối hợp với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông
Theo tin từ Journal Online của Philippines ngày 7/1, một nghị sỹ đối lập đã thúc giục Bộ Ngoại giao Philippines phối hợp với Việt Nam trong đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Nghị sỹ Gary Alejano nhất trí với đề xuất của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Albert Del Rosario về việc trao đổi với phía Việt Nam, cho rằng Việt Nam đã thể hiện lập trường cứng rắn chống lại các điều khoản có lợi cho Trung Quốc trong dự thảo COC. Philippines phải ủng hộ Việt Nam trong việc này để ngăn chặn các nỗ lực của Trung Quốc nhằm có được quyền kiểm soát hoàn toàn Biển Đông. Nghị sỹ Alejano bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với lập trường và hành động của Việt Nam đối với chính sách bành trướng của Bắc Kinh, nhấn mạnh “Việt Nam đã lên tiếng chỉ trích Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông. Và trong khi vẫn giữ mối quan hệ tốt về kinh tế với Trung Quốc, Việt Nam không từ bỏ các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của mình ở Biển Đông hay làm tổn hại chủ quyền của mình – một vài điều mà chính quyền Duterte cần phải lưu ý”. Ông Alejano đề nghị Philippines và các nước
còn lại trong khối ASEAN cần bảo đảm COC phục vụ mục đích chính của mình là bảo đảm hòa bình và ổn định ở khu vực dựa trên luật pháp quốc tế.
Khu trục hạm Mỹ tiến sát Hoàng Sa, TQ lớn tiếng:
Ngay lập tức cử máy bay quân sự ra đuổi
Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc chiều 7/1 đã nêu phản ứng trước động thái tàu chiến Mỹ di chuyển sát khu vực quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam).
Trong cuộc họp báo thường ngày 7/1, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng đã lên tiếng trước thông tin tàu khu trục Mỹ USS McCampbell đi vào vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa – thuộc chủ quyền Việt Nam, bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép.
Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng, ngay sau khi vụ việc phát sinh, Bắc Kinh đã lập tức cử máy bay quân sự để xác minh và nhận dạng tàu Mỹ, đồng thời cảnh cáo xua đuổi tàu chiến Mỹ và đưa ra giao thiệp nghiêm khắc với phía Mỹ.
Ông Lục cho rằng, động thái của tàu chiến Mỹ đã “vi phạm luật pháp quốc tế liên quan…, phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định trật tự của vùng lãnh hải này”.
“Trung Quốc kiên quyết phản đối các hành động liên quan của Mỹ và kêu gọi Mỹ ngừng ngay lập tức các hành động khiêu khích tương tự. Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc lớn tiếng cảnh cáo.
Cũng tại buổi họp báo, trước câu hỏi “Hành động này của Mỹ có ảnh hưởng tới các cuộc tham vấn thương mại Trung-Mỹ đang được tổ chức ở Bắc Kinh không?”, ông Lục cho biết, giải quyết ổn thỏa các vấn đề tồn tại giữa Trung Quốc và Mỹ, bao gồm các vấn đề kinh tế và thương mại, đều sẽ có lợi cho hai nước và thế giới.
“Cả hai bên phải có trách nhiệm tạo ra bầu không khí tốt đẹp cần thiết cho việc này”, ông này nhấn mạnh.
Thấy gì từ việc Philippines điều chỉnh quan hệ với TQ
do sức ép từ vấn đề Biển Đông
Sau chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 10 năm 2016 của tổng thống Philippines Duterte, quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc đã có tiến triển trên nhiều lĩnh vực. Hai bên thường xuyên trao đổi chuyến thăm các cấp nhằm xây dựng lòng tin, tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư, bước đầu hợp tác về quốc phòng, an ninh và tìm kiếm cơ chế đàm phán song phương để giải quyết bất đồng trong vấn đề Biển Đông.
Trung Quốc bác bỏ việc xây cơ sở trên bãi cạn Scarborough tranh chấp với Philippines.
Những bước đi trong quan hệ giữa Philippines với Trung Quốc trong thời gian gần đây có thể thấy rõ trên những mặt sau:
Một là, xây dựng lòng tin lẫn nhau, hướng tới xây dựng lòng tin chiến lược.
Sau những căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước liên quan đến vụ Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế (PCA) về vấn đề Biển Đông mà kết quả là PCA ra phán quyết Philippines thắng kiện. Những tưởng quan hệ Philippines – Trung Quốc giống như một cặp vợ chồng đưa nhau ra tòa ly hôn, để rồi sau đó đường anh anh đi, đường tôi tôi đi. Thế nhưng, tổng thống Duterte lại chọn giải pháp giảm căng thẳng trong quan hệ với Trung Quốc.
Để đưa quan hệ hai nước trở lại quỹ đạo bình thường, Duterte đã ba lần tiếp đại sứ Trung Quốc tại Philippines; yêu cầu các bộ, ngành, truyền thông trong nước không đưa ra các tuyên bố, bình luận chế nhạo Trung Quốc liên quan đến phán quyết của PCA; tuyên bố sẵn sàng hợp tác và chia sẻ với Trung Quốc nguồn tài nguyên thiên nhiên trong các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở phán quyết của PCA. Đồng thời, tìm cách trao đổi với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Thông qua đó bày tỏ thiện ý sẵn sàng cải thiện và coi trọng mối quan hệ với Trung Quốc; mong muốn tăng cường hợp tác hơn nữa với Trung Quốc để xây dựng lòng tin, nhằm tạo nền tảng vững
chắc cho duy trì và phát triển quan hệ song phương, cũng như giải quyết hòa bình các vấn đề còn tồn tại, nhất là tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông. Ở chiều ngược lại, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng bày tỏ hy vọng về mối quan hệ giữa hai nước sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp, bất chấp những gì đã diễn ra do tranh chấp ở Biển Đông thời gian qua. Trung Quốc cho rằng, mối quan hệ giữa hai nước mới là tất cả, bất đồng trong vấn đề Biển Đông chỉ là một khía cạnh chứ không phải là toàn bộ. Vì vậy, duy trì mối quan hệ hữu nghị, bền vững và tốt đẹp phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước hơn và cho rằng, hai nước có trách nhiệm tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác, cố gắng hết sức để đưa quan hệ hai nước đi đúng hướng.
Đáng chú ý, trong cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bên lề Diễn đàn cấp cao hợp tác Quốc tế “Một vành đai, một con đường” được tổ chức ở Bắc Kinh, tổng thống Duterte khẳng định, Philippines sẽ duy trì “tiếp xúc hòa bình” với Trung Quốc nhằm giảm căng thẳng trên Biển Đông, mở đường cho những bước đi đúng đắn trong tiến trình giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước.
Hai là, thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc.
Chỉ trong một thời gian ngắn, hai bên đã nối lại thành công cuộc họp Ủy ban hỗn hợp Philippines – Trung Quốc về hợp tác kinh tế – thương mại (JCETC) đã bị ngừng hoạt động từ năm 2011. Đồng thời, nhân việc Trung Quốc triển khai sáng kiến “Một vành đai, một con đường” và kêu gọi các nước trong khu vực tham gia hiện thực hóa sáng kiến trên, Philippines đã nhanh chóng tuyên bố hưởng ứng và đồng ý cho phép Trung Quốc tham gia đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp tại Philippines trị giá hàng tỷ USD. Thậm chí, phía Philippines còn công bố chiến lược kinh tế gọi là “Dutertenomics” nhằm tận dụng tối đa nguồn vốn của Trung Quốc để đưa Philippines trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2022 và là nước có thu nhập cao vào năm 2024…
Ba là xúc tiến quan hệ quốc phòng và an ninh với Trung Quốc.
(1) Lực lượng chấp pháp hai nước thành lập Ủy ban Bảo vệ bờ biển chung (JCGC) để làm nền tảng cho sự hợp tác giữa hai lực lượng, nhằm tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, đẩy mạnh giao lưu và hợp tác thân thiện, dựa trên nguyên tắc bình đẳng, đồng thuận và có sự nhượng bộ lẫn nhau; nhất trí hợp tác trong lĩnh vực phòng, chống ma túy và tội phạm xuyên quốc gia, tìm kiếm và cứu hộ, cứu nạn… thiết lập cơ chế đường dây nóng giữa lực lượng cảnh sát biển hai nước; tăng cường các chuyến thăm cấp cao, các cuộc diễn tập, các chuyến thăm hải quân, xây dựng lực lượng. Học viện Cảnh sát biển Trung Quốc (05/2017) đã huấn luyện cho 20 sỹ quan cảnh sát biển Philippines nhiều khoa mục, trong đó có khoa mục thông tin liên lạc và báo hiệu hàng hải, vận hành tàu thuyền và cập cảng, các kỹ năng lặn và cứu hộ… (2) Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực phòng, chống ma túy. Tháng 10/2016, đại diện cơ quan phòng chống ma túy của hai nước đã tổ chức hội đàm về hợp tác phòng chống ma túy tại Bắc Kinh; ký văn kiện hợp tác chống ma túy, xây dựng cơ chế gặp mặt thường niên, thiết lập đường dây nóng liên lạc, hợp tác chấp pháp, trao đổi thông tin tình báo, hỗ trợ đào tạo… (3) Bước đầu hợp tác về trang bị kỹ thuật quân sự phục vụ mục đích chống khủng bố. Quý I/2017, Trung Quốc đã cung cấp miễn phí một số trang, thiết bị, gồm tàu cao tốc, tên lửa vác vai, máy bay không người lái, kính nhìn đêm trị giá 14,4 triệu USD hỗ trợ Philippines phòng chống khủng bố, đồng thời Trung Quốc còn cho Philippines vay 500 triệu USD với thời hạn thanh toán 25 năm để mua các trang thiết bị quân sự khác. Đáng chú ý, Trung Quốc tuyên bố ủng hộ mạnh mẽ các hoạt động chống khủng bố tại thành phố Malawi của Philippines và mong muốn tìm kiếm cơ hội huấn luyện, chia sẻ thông tin tình báo và diễn tập chung với Philippines ở khu vực có giao tranh với khủng bố. Đại sứ Trung Quốc tại Philippines (27/6/2017) tuyên bố Trung Quốc sẽ tài trợ 298.436 USD cho các hoạt động cứu trợ, khôi phục lại thành phố Malawi và đã bàn giao lô vũ khí trị giá 7,35 triệu USD (28/6/2017), gồm 3.000 khẩu súng trường và 5 triệu viên đạn để Philippines chống khủng bố ở Malawi.
Thậm chí, trên cơ sở những bước tiến trong quan hệ song phương, phía Philippines còn bày tỏ ý định ký thỏa thuận viếng thăm quân sự với Trung Quốc, nhằm mở đường cho các cuộc diễn tập quân sự song phương trong tương lai.
Xem xét những bước tiến triển như trên trong quan hệ giữa Philippines với Trung Quốc thời gian gần đây, có thể thấy rằng, chính quyền Philippines dưới thời Tổng thống Duterte đã lựa chọn giải pháp ngược hẳn so với giải pháp “Quốc tế hóa, đa phương hóa và pháp lý hóa” nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong giải quyết vấn đề Biển Đông với Trung Quốc do chính quyền tổng thống Aquino trước đó đưa ra. Giải pháp trên, có những khía cạnh khá khôn ngoan, thực dụng, nhưng cũng có không ít khía cạnh chưa hẳn đã là “cao tay”, thậm chí có khi còn mang lại hệ
lụy khó lường không những cho bản thân Philippines, mà còn cho cả các nước có liên quan. Đó là:
Về khía cạnh khôn ngoan, thực dụng:
Thứ nhất, những hành động của Philippines cho thấy chính quyền Duterte chủ trương tiếp cận vấn đề Biển Đông một cách thận trọng và khôn ngoan, không đẩy nóng vấn đề, kể cả không tận dụng phán quyết của PCA để “thừa thắng xốc tới” nhằm tránh đẩy Trung Quốc tới chỗ có những hành động “cực đoan” ở Biển Đông, qua đó duy trì môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi để phát triển đất nước. Ông Duterte tuyên bố: “Philippines không thể ngăn chặn tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông, bởi ngay cả Mỹ cũng không có khả năng này và sẽ là vô nghĩa nếu phát động một cuộc chiến tranh với Trung Quốc”. Có thể nói đây là chủ trương khá “biết mình, biết người” của Philippines, nhất là trước “người” ở đây là một Trung Quốc đang thịnh chứ không phải suy.
Thứ hai, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh hải, bảo đảm quyền hợp pháp trong khai thác tài nguyên ở Biển Đông dựa trên phán quyết của PCA là mục tiêu không thay đổi của Philippines. Philippines khẳng định, sẽ “không từ bỏ” các thắng lợi về pháp lý đã đạt được theo phán quyết của PCA. Tuy nhiên, Duterte đã sử dụng linh hoạt phán quyết của PCA trong quan hệ với Trung Quốc nhằm bảo vệ chủ quyền. Theo đó, trong Tuyên bố Chủ tịch Hội nghị cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 31, với tư cách là nước Chủ tịch ASEAN năm 2017, Philippines đã không đề cập đến hành động cải tạo đảo đá và quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông, cũng như kết quả phán quyết của PCA. Bên cạnh đó, Philippines đã khéo léo kết hợp chiến thuật “kẻ đấm, người xoa” giữa việc duy trì đường lối ngoại giao mềm dẻo, thân thiện của tổng thống Duterte với lập trường cứng rắn của Bộ Quốc phòng, hệ thống tư pháp để chống lại tham vọng chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ ba, tìm kiếm, lựa chọn cơ chế đàm phán song phương với Trung Quốc về giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Duterte cho rằng, Trung Quốc là nước láng giềng, không phải kẻ thù của Philippines, chỉ cần Trung Quốc đồng ý, Philippines sẽ “gác tranh chấp, cùng khai thác” trên Biển Đông với Trung Quốc. Philippines không muốn mối quan hệ đang “ấm” lên giữa hai nước bị đổ vỡ vì vấn đề Biển Đông. Nhờ sự lựa chọn này mà Philippines và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận, nhất trí triển khai xây dựng một cơ chế tham vấn song phương, nhằm giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Trong khuôn khổ cơ chế đó, mỗi năm sẽ có 2 cuộc họp được tổ chức với thành phần tham gia là các quan chức Bộ Ngoại giao hai nước. Ngày 19/5/2017, tại Quý Châu, Trung Quốc, hai bên đã thành lập cơ chế tham vấn song phương về Biển Đông và tiến hành cuộc họp đầu tiên.
Về khía cạnh chưa “cao tay” và hệ lụy:
Thứ nhất, Philippines sẽ gặp nhiều khó khăn về đối sách quan hệ với Trung Quốc, vì đến nay, nguồn vốn của Trung Quốc vẫn chưa hề được chuyển vào Philippines đúng như cam kết và chưa có dự án cơ sở hạ tầng lớn nào chính thức được khởi công. Mới chỉ thấy một vài hành động “nhỏ giọt” của phía Trung Quốc, chưa thấy rõ thực tâm Trung Quốc sẽ đáp ứng những mong muốn của Philippines. Trong khi đó, tình hình bất ổn xảy ra thường xuyên tại một số nơi của Philippines cũng khiến Trung Quốc e ngại khi đầu tư vào nước này, nhất là các dự án cơ sở hạ tầng. Trung Quốc tận dụng việc cải thiện mối quan hệ với Philippines nhằm tạo hình ảnh “nước lớn có trách nhiệm” trong khu vực, thúc đẩy sáng kiến “một vành đai, một con đường” mà ở đó Philippines sẽ là một “mắt xích” quan trọng.
Thứ hai, Trung Quốc duy trì quan hệ với Philippines theo hướng “mềm dẻo” nhằm “kéo” Philippines “rời xa” Mỹ, thực hiện chính sách ngăn chặn từ xa những ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực, nhất là đối với “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc ở Biển Đông. Trung Quốc hỗ trợ Philippines theo kiểu “công thưởng, tội phạt” và chỉ nhằm xây dựng “hình ảnh nước lớn”, buộc Philippines phải chấp nhận mọi điều kiện. Điều này sẽ dẫn đến nguy cơ Philippines phải chấp nhận sự chi phối của Trung Quốc để đổi lại sự bảo trợ về kinh tế. Nếu Philippines không đáp ứng các điều kiện, Trung Quốc sẽ tiến hành “trừng phạt” và gây thiệt hại lớn cho nước này như đã từng thực hiện trước đây.
Thứ ba, trong bối cảnh Châu Âu ngày càng lâm vào tình thế khó khăn cả về kinh tế, chính trị, an ninh, thì việc gia tăng quan tâm tới châu Á – Thái Bình Dương đang là hướng ưu tiên của Mỹ, trong đó Biển Đông rất dễ trở thành mối quan tâm lớn của chính quyền Donald Trump. Hơn nữa, do cả Mỹ và Trung Quốc đều có nhiều lợi ích ràng buộc, nên hai nước vẫn luôn để ngỏ cho sự thỏa hiệp, đổi chác lợi ích ở Biển Đông, khiến cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông với Trung Quốc sẽ không theo ý đồ của Philippines. Rõ ràng, Philippines muốn là “người đánh cờ” với Trung Quốc, trong khi không nghĩ rằng “ván cờ” Biển Đông còn có “người chơi” khác mạnh hơn Philippines là Mỹ.
Thứ tư, việc Philippines chủ động cải thiện quan hệ với Trung Quốc đã góp phần làm giảm bớt căng thẳng, tạo môi trường tương đối ổn định ở Biển Đông thời gian qua nhưng nó lại có tác động nhất định đến việc chi phối, gây ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực, điều này không chỉ cản trở Mỹ thực thi chiến lược “tái cân bằng” tại Châu Á – Thái Bình Dương, mà còn làm cho Mỹ và Nhật Bản mất đi một “quân cờ” quan trọng khi triển khai các ý đồ chiến lược tại Biển Đông, buộc Mỹ, Nhật phải tính toán lại chiến lược quân sự theo hướng lôi kéo các đồng minh, đối tác khác có chung lợi ích, cũng như tìm kiếm các đối tác mới ở Đông Nam Á, nhằm bảo đảm sự hiện diện vững chắc tại khu vực.
Thứ năm, sự thực dụng của Philippines trong quan hệ với Trung Quốc đẩy ASEAN vào những khó khăn, thách thức mới, nhất là việc xây dựng lập trường chung, sự đồng thuận đối với vấn đề của khu vực, trong đó có lập trường chống lại tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông. Kết quả hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 50 là minh chứng rõ ràng cho sự chia rẽ trong nội khối, khi vấn đề Biển Đông được đề cập hết sức “mờ nhạt” trong Tuyên bố Chủ tịch. Sự phân hóa, chia rẽ đó có thể mang lại những hệ lụy lâu dài đối với ASEAN, khiến ASEAN khó có thể cân bằng vị thế giữa Mỹ và Trung Quốc. Đồng thời, có phần “làm khó” cho những nỗ lực hướng tới giải pháp mang tính đa phương trong giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, gây ảnh hưởng tới vị thế của các bên còn lại có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ sáu, trước đây, Trung Quốc liên tục đề xuất ý tưởng “gác tranh chấp, cùng khai thác” với các nước có tranh chấp ở Biển Đông, nhưng không nhận được sự hưởng ứng, thì nay những động thái của Philippines đã và đang tạo điều kiện cho Trung Quốc đẩy mạnh ý tưởng trên ở Biển Đông, cũng như ngầm biến các khu vực vốn thuộc thềm lục địa của các nước thành vùng “cùng khai thác”, giúp Trung Quốc từng bước hợp thức hóa tham vọng chủ quyền, đồng thời, ngăn chặn khả năng can dự của Mỹ vào khu vực.
Như vậy, những diễn biến gần đây cho thấy, việc Philippines điều chỉnh chính sách trong quan hệ với Trung Quốc bước đầu đã đem lại lợi ích cho nước này, góp phần làm dịu tình hình ở Biển Đông. Tuy nhiên, điều đó cũng khiến Philippines đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Với cách tiếp cận “song phương”, thậm chí là “đánh đổi chủ quyền lấy lợi ích kinh tế” trong vấn đề Biển Đông, Philippines sẽ có nguy cơ đánh mất hoặc phá vỡ các quan hệ và sự hỗ trợ truyền thống từ các quốc gia, tổ chức quốc tế.
Trước đây, Philippines luôn là nước đi đầu trong đấu tranh với tham vọng chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng nay lại có sự thỏa hiệp, nhượng bộ với Trung Quốc. Sự thay đổi này sẽ tác động tiêu cực tới nguyên tắc đồng thuận, mối đoàn kết trong ASEAN, nhất là đối với các nước đang đấu tranh với những hành động sai trái của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt trên mặt trận ngoại giao và pháp lý.
Đánh bắt cá ở Biển Đông :
Trò chơi hai mặt của Bắc Kinh
Trước áp lực bảo đảm an ninh nguồn cung cấp trong nước và với tham vọng phát triển ngành xuất khẩu thủy sản, Bắc Kinh không ngần ngại chơi trò hai mặt với các nước láng giềng trong vùng Biển Đông. Trên đây là những nhận định chung của chuyên gia Sébastien Colin, nhà địa lý học và giảng viên Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Phương Đông (Inalco), trên kênh truyền hình France 24.
Biển Đông những năm gần đây đã thật sự thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và giới chuyên gia, do những căng thẳng vì các tranh chấp chủ quyền lãnh hải. Trung Quốc đã chiếm nhiều bãi đá ngầm tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà một số nước như Việt Nam, Philippines đều tuyên bố có chủ quyền.
Đối với giới chuyên gia Pháp, Biển Đông còn được ví như là Địa Trung Hải châu Á. Bởi vì, trong quá khứ, ngay từ thế kỷ XV, XVI, khu vực này đã là một không gian giao thương nhộn nhịp quan trọng. Để rồi chính tại đây, các quốc gia mới trỗi dậy một khi thời kỳ thực dân chấm dứt cũng bắt đầu để ý đến các giới hạn chủ quyền lãnh thổ, giới hạn chính trị… Và trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, vùng không gian này vẫn luôn mang tính thời sự hơn bao giờ hết.
Bởi vì giờ đây, Biển Đông, không gian trao đổi, nay cũng là không gian căng thẳng, không chỉ về mặt quân sự vì những yêu sách chủ quyền lãnh thổ đối với các bãi đá ngầm, các đảo nhỏ, mà cả về môi trường. Tình trạng đánh bắt thủy hải sản quá mức đã đặt khu vực này dưới nhiều áp lực, trong khi mà các chương trình hợp tác đa phương giữa các nước có liên quan hầu như vắng bóng, theo như quan sát của ông Sébastien Colin:
« Ở đây, người ta đưa ra các chiến lược, những quan điểm khác nhau của các chính phủ : nhiều chương trình hợp tác được đề xuất giữa một số nước này, nhưng lại thiếu hợp tác với những nước khác. Quả thật, bất kể việc các nước hiện đều có chung một thách thức, nhưng các áp lực môi trường đã không thúc đẩy được một sự hợp tác sâu rộng như mong đợi ».
Trung Quốc: Người khổng lồ “háu đói” thủy sản
Căng thẳng này dường như còn gia tăng thêm một mức khi Trung Quốc gần đây thông báo từ đây đến năm 2050, kinh tế hàng hải (gồm các hoạt động cảng biển, vận chuyển hàng hải, du lịch…) phải chiếm đến 30% tổng sản phẩm quốc nội. Và nhất là khi tập trung quan sát ngành ngư nghiệp, người ta nhận thấy rõ là « Bắc Kinh có một lập trường gây căng thẳng nhiều hơn là hợp tác », theo như phân tích của ông Colin.
Hiện tại, Trung Quốc đã đứng đầu thế giới về nuôi trồng thủy hải sản (chiếm 61% tổng sản lượng thủy hải sản) và đánh bắt (khoảng 27%). Ông Colin lưu ý : « Năm 2015, sản lượng đánh bắt xa bờ của Trung Quốc là 17,6 triệu tấn. Quốc gia đứng hàng thứ hai trên thế giới là Indonesia, với 6,5 triệu tấn. »
Bảo đảm an ninh lương thực là một thách thức lớn đối với Trung Quốc. Nhu cầu tiêu thụ thủy hải sản trong nước đã tăng mạnh ngay từ những năm 1980, 1990, 2000. Nhu cầu này vẫn sẽ tiếp tục gia tăng trong những thời gian sắp tới, bởi vì mức tiêu thụ cá mỗi năm tính theo đầu người tại Trung Quốc không ngừng tăng lên.
Điều nghịch lý là Bắc Kinh không chỉ hài lòng với việc bảo đảm nguồn cung cho thị trường nội địa khổng lồ, mà còn muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy hải sản ra thị trường thế giới. Với ông Colin, đây quả là một đòi hỏi đầy tham vọng : « Trung Quốc xuất khẩu một phần sản lượng của mình, 10% sản lượng nuôi trồng được xuất khẩu ra thị trường thế giới. Do vậy, nước này có một chính sách gia tăng xuất khẩu đơn giản chỉ vì lý do kinh tế và đương nhiên điều đó khiến cho nhu cầu về thủy hải sản của Trung Quốc ngày càng trở nên lớn ».
Cơ chế song phương hơn là đa phương
Hệ quả đương nhiên của một chính sách ngư nghiệp « tham vọng » này là Trung Quốc phải đối mặt với nhiều vấn đề như ô nhiễm bờ biển, nguồn dự trữ thủy hải sản bị suy kiệt. Trung Quốc buộc phải mở rộng phạm vi đánh bắt, đi đến những vùng biển xa hơn ở Biển Đông, hay Nam Thái Bình Dương. Và đây cũng chính là điểm phát sinh các căng thẳng trong khu vực.
Về điểm này, chuyên gia Sébastien Colin trở lại nguyên nhân sâu xa giải thích vì sao Trung Quốc ngày nay luôn nằm trong thế kẹt giữa ý muốn « hợp lý hóa » một phần các nguồn thủy sản ở các vùng duyên hải và chính sách phát triển đánh bắt xa bờ.
Trên thực tế, Trung Quốc hiện đang khai thác quá mức các nguồn thủy hải sản gần bờ. Trong suốt những năm 1980, 1990, Bắc Kinh đã phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy hải sản nhằm cung cấp cho thị trường nội địa, đồng thời Trung Quốc cũng tìm cách giảm bớt đội ngư thuyền nhằm bảo tồn các nguồn thủy hải sản gần bờ.
Thế nhưng, mô hình đó giờ đang tỏ ra hụt hơi. Ngành nuôi trồng thủy hải sản không có nhiều triển vọng phát triển tại Trung Quốc. Các nguồn thủy hải sản ven bờ thì đang dần suy kiệt. Các loài cá ven bờ là những loài cá nhỏ, chỉ có thể dùng để làm thức ăn cho cá nuôi.
Câu hỏi đặt ra : Đâu là chiến lược hành động của Bắc Kinh trong lĩnh vực này ? Hợp tác đa phương hay là song phương ? Về điểm này, chuyên gia Colin khẳng định Bắc Kinh không có thiện chí hợp tác « đa phương » và chỉ giải quyết các căng thẳng trong lĩnh vực ngư nghiệp thông qua các thỏa thuận song phương. Ông giải thích rằng :
« Bởi vì các chính sách đa phương đòi hỏi Bắc Kinh phải tuân thủ một số tiêu chí được quy định trong Công ước Quốc tế về Quản lý ngư nghiệp và chống đánh bắt trái phép. Và Trung Quốc luôn phản đối văn bản này, cũng như là không tham gia ký kết và phê chuẩn. Do vậy, Trung Quốc chỉ giải quyết vấn đề đánh bắt bằng hợp tác song phương thông qua một loạt các thỏa thuận được phép tiếp cận các vùng đặc quyền kinh tế của một nước nào đó. »
Đương nhiên những thỏa thuận này không thể nào ngăn chận những va chạm, xung khắc xảy ra. Ngư dân địa phương phản đối mạnh mẽ trước việc ngư dân Trung Quốc được phép đến đánh bắt tại những ngư trường truyền thống của họ. Và một hệ quả khác cũng đáng chú ý là những nguồn cá do các ngư thuyền của Trung Quốc đánh bắt được chưa hẳn được dành cho các ngư thuyền địa phương. Đây chính là một trong những vấn đề thường gặp nhất trong các kiểu thỏa thuận này và dĩ nhiên Trung Quốc chưa hẳn là tác nhân duy nhất.
Lực lượng dân quân biển của TQ
đang đe dọa các bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông
Tại Hội thảo an ninh được tổ chức tại Makati, Manila, Philippines ngày 7/12/2018, Giám đốc tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Mỹ (CSIS) Gregory Poling cho rằng, lực lượng dân quân trên biển Trung Quốc đang làm nhiệm vụ chủ yếu là đe dọa các nước láng giềng có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.Mặc dù các lực lượng dân quân biển xuất hiện dưới hình thức là các đội tàu cá, song chúng ta cần cảnh giác với lực lượng này.
Từ khi các căn cứ hải quân nhân tạo của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa đi vào hoạt động, các tàu hải quân, hải cảnh và tàu cá của Trung Quốc đã hiện diện liên tục ở Biển Đông, làm tăng nguy cơ căng thẳng giữa các nước trong khu vực. Ông Gregory Poling cho biết “những gì Bắc Kinh đã làm trong vài năm qua là thiết lập sự hiện diện 24/7 của các tàu hải quân và bảo vệ bờ biển, cũng như các lực lượng dân quân bán quân sự khắp Biển Đông, theo cách thức chưa từng có cách đây 4 hoặc 5 năm. Tôi đang đề cập tới lực lượng dân quân trên biển, các lực lượng bán quân sự. Chúng ta thường cho rằng lực lượng này tương đối nhỏ trong lực lượng quân sự Trung Quốc và chúng ta đang mắc sai lầm”. Một hình ảnh vệ tinh được chụp vào tháng 8/2018 cho thấy chỉ trong 1 ngày đã có khoảng 200 tàu ở trong khu vực vùng nước của đá Xu Bi. Các tàu này có chiều dài trung bình 51m, dài hơn nhiều tàu đánh cá của Philippines và các nước khác. Ông Poling cho biết không có tàu nào thực sự đang đánh cá. Khi theo dõi họ, chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy họ làm gì đó ngoài việc hăm dọa tàu nước khác. Những tàu này thường rời đá Subi và neo đậu xung quanh đá Thị Tứ trong nhiều ngày và hàng tuần để hăm dọa lực lượng Philippines khi làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần. Ngoài ra, các tàu này cũng hiện diện thường xuyên quanh các đảo Trung Quốc chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và xua đuổi tàu cá của Việt Nam đánh bắt cá tại khu vực này.
Lực lượng dân quân, trong đó có dân quân biển là một trong ba tổ chức thuộc Lực lượng vũ trang nhân dân Trung Quốc bao gồm lực lượng quân đội, cảnh sát vũ trang. Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc năm 2013 khẳng định, các lực lượng dân quân đóng vai trò như một lực lượng hỗ trợ và dự phòng của lực lượng quân đội Trung Quốc.
Các đơn vị dân quân biển được tổ chức xung quanh các thị trấn, làng mạc, các tiểu khu đô thị… và rất đa dạng về thành phần cũng như nhiệm vụ. Ngoài công việc thường ngày, lực lượng dân quân biển được tổ chức và huấn luyện như các lực lượng dân quân khác. Trước đây, lực lượng dân quân biển đã thuê tàu cá của các công ty hoặc ngư dân, nhưng nay đã xây dựng được đội tàu đánh cá do nhà nước sở hữu. Kể từ năm 2015, bắt đầu từ “thành phố Tam Sa”, Trung Quốc đã phát triển lực lượng dân quân biển chuyên nghiệp hơn, quân sự hóa hơn, được trả lương cao hơn, tàu thuyền chuyên dụng có vòi rồng phun nước và thân tàu được gia cố để có thể đâm va. Một số lượng lớn tàu của lực lượng dân quân biển tham gia huấn luyện cùng với sự trợ giúp của Lực lượng hải quân và hải cảnh Trung Quốc trong nhiều sứ mệnh như bảo vệ các yêu sách hàng hải, giám sát, bảo vệ ngư trường, hỗ trợ hậu cần, nghiên cứu và cứu hộ. Để ủng hộ và khuyến khích các nỗ lực của lực lượng dân quân biển, chính phủ Trung Quốc còn trợ cấp cho nhiều tổ chức ở cấp tỉnh và địa phương để vận hành các tàu dân quân thực hiện các nhiệm vụ “chính thức” trên biển.
Trong báo cáo thường niên về sự phát triển quân sự và an ninh liên quan tới Trung Quốc được Bộ Quốc phòng Mỹ công bố hồi tháng 8/2018, Mỹ cho rằng Bắc Kinh đang sở hữu một lực lượng dân quân biển lớn nhất và mạnh nhất hành tinh. Một trong số ít các lực lượng dân quân biển còn tồn tại ngày nay và là lực lượng duy nhất được giao nhiệm vụ liên quan đến tranh chấp chủ quyền. Vốn là thành phần chính của Các Lực lượng vũ trang Trung Quốc, lực lượng dân quân biển hoạt động dưới sự chỉ huy quân sự trực tiếp để tiến hành các hoạt động do nhà nước bảo trợ. Trung Quốc hiểu rất rõ giá trị mập mờ danh tính của lực lượng dân quân biển. Nhờ bản chất là các tàu cá được trang bị vũ khí hạng nhẹ, lực lượng dân quân biển có thể tham gia hỗ trợ các hoạt động
bảo đảm lợi ích trên biển và củng cố yêu sách “đường lưỡi bò” sai trái trên Biển Đông của mình mà không gây phương hại tới hình ảnh của PLA hoặc đẩy các vụ đụng độ thành leo thang căng thẳng.
Đây không phải lần đầu tiên Mỹ cảnh báo về các hoạt động gây ảnh hưởng của lực lượng dân quân biển của Trung Quốc đến các hoạt động của các nước xung quanh Biển Đông. Trước đây, tại cuộc điều trần trước Ủy ban Quân vụ Hạ viện Mỹ tháng 9/2016, Giáo sư, tiến sỹ Andrew Erickson, Học viện Hải chiến Mỹ, cho biết lực lượng dân quân biển của Trung Quốc là lực lượng bán quân sự hoạt động ở tiền tuyến nhưng ẩn náu dưới dạng dân sự. Lực lượng được cho là phát triển trong bóng tối để thực hiện những mưu đồ đen tối này thường xuất hiện dưới dạng tàu đánh cá nhưng lại không mấy khi để tâm tới việc đánh bắt. Giới chuyên gia cho rằng những tàu cá này đang thực hiện chiến dịch “xâm chiếm vùng xám”, tức nơi đang xảy ra tranh chấp trên biển. Khi khoác lên mình đồng phục màu xanh, ngư dân Trung Quốc trở thành dân quân biển, núp bóng tàu cá để tiến hành trinh sát, do thám cũng như nhiều hành động gây rối. Sự nhập nhằng giữa tàu cá với tàu dân quân biển của Trung Quốc đã khiến lực lượng chức năng các nước trên Biển Đông không khỏi do dự khi đối mặt những đối tượng này và chúng lại càng được đà lấn lướt, coi thường luật pháp quốc tế. Khi các tàu cá này hoạt động phi pháp, bị lực lượng chức năng nước khác bắt giữ, Trung Quốc có thể viện dẫn Điều 95 Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 [1] và yêu cầu miễn trừ vì nó thuộc sở hữu của lực lượng dân quân biển (tức là tàu chiến về mặt kỹ thuật), thậm chí cho rằng vụ bắt giữ này là một hành động gây chiến.
Trước đây, các tàu thuộc lực lượng dân quân biển giả danh tàu cá đã tham gia vào nhiều vụ việc gây hấn với tàu nước ngoài nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia của Trung Quốc, gây ảnh hưởng môi trường ổn định của khu vực Biển Đông như: tháng 5/2014, lợi dụng việc Trung Quốc kéo và đặt giàn khoan Haiyang Shiyou-981 (HD-981) trái phép trong vùng biển của Việt Nam, ngoài các tàu của lực lượng Hải cảnh, Kiểm ngư và tàu quân sự thì hàng chục tàu cá Trung Quốc đã thiết lập hàng rào bảo vệ quanh giàn khoan HD-981 và có những động thái khiêu khích các tàu hải quân và tàu cảnh sát biển của Việt Nam, gây căng thẳng tình hình dẫn đến các xung đột tiềm ẩn giữa hai bên. Theo Defense News, tháng 10/2015, khi tuần tra áp sát đá Xu Bi thuộc quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc chiếm đóng và bồi đắp phi pháp thành đảo nhân tạo, tàu khu trục của Mỹ Lassen bị nhiều tàu Trung Quốc bao quanh khiêu khích. Trong lúc các tàu chiến lớn của Trung Quốc đứng từ xa thì nhiều tàu nhỏ manh động hơn, chạy ngang mặt hoặc lởn vởn quanh chiến hạm Mỹ. Nhiều nguồn tin tiết lộ số tàu nhỏ này đều là tàu cá hoặc tàuthương mại và điều khiển chúng là những thành viên của cái gọi là lực lượng dân quân biển…
Núp dưới bóng là các tàu cá và không được chú ý nhiều trên Biển Đông nhưng lực lượng dân quân biển đã và đang được Trung Quốc sử dụng ngày càng thường xuyên hơn để tăng cường sự hiện diện của mình trên biển, thực hiện các nhiệm vụ giám sát, theo dõi hoạt động của các tàu cá, tàu hải quân, tàu cảnh sát biển của các nước khác trong khu vực. Thậm chí, các tàu cá này còn được sử dụng để tiến hành các hoạt động gây hấn, bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trên biển, đe dọa tàu của các nước khác khi hoạt động trên biển ở khu vực này. Ở Biển Đông, lực lượng dân quân biển đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động “xâm chiếm” khu vực nhằm giúp Trung Quốc đạt được mục tiêu chính trị mà không cần giao chiến, một phần trong học thuyết quân sự Trung Quốc rộng lớn hơn là đối đầu nhưng không gây chiến. Bộ Quốc phòng Mỹ cảnh báo rằng, việc Bắc Kinh sử dụng lực lượng dân quân biển đang làm suy yếu các lợi ích của các nước trong khu vực và quốc tế trong việc duy trì hiện trạng tại Biển Đông, nơi có các quy tắc và quy chuẩn là nền móng của hòa bình và thịnh vượng.
Trong tương lai, Trung Quốc sẽ phát triển lực lượng dân quân biển ngày càng hiện đại và chuyên nghiệp hơn nữa cả về chất và lượng, bởi các hoạt động của lực lượng này chưa bị quản lý bởi chế tài nào. Năm 2014, các quốc gia vùng Tây Thái Bình Dương, bao gồm Việt Nam và Trung Quốc đồng ý ký Bộ quy tắc về tránh các vụ đụng độ không báo trước trên biển (CUES). Lúc đó CUES được đưa ra chỉ giới hạn ở phạm vi lực lượng hải quân và quân đội của các nước với nhau và cho đến nay CUES cũng chỉ dừng lại ở mức độ đó. Việt Nam đã đề nghị ký CUES mở rộng bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển, ngư dân, nhưng đến nay Bắc Kinh vẫn chưa đồng ý. Điều này phản ánh rõ ý đồ của Trung Quốc trong việc sử dụng lực lượng dân quân biển của mình để thực hiện các hoạt động gây hấn, quấy rối tàu cá, tàu chiến của các quốc gia khác khi hoạt động trong khu vực Biển Đông nhằm củng cố yêu sách biển phi lý của mình.
[1] Điều 95: Các tàu chiến trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất ký quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.
Hoa Kỳ tăng cường tuần tra Biển Đông
giúp gì cho Việt Nam?
Mở đầu năm 2019, Hoa Kỳ ngay lập tức gửi tàu chiến đến khu vực quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông. Đây là hoạt động tuần tra thường xuyên của Hoa Kỳ kể từ năm 2015 trở lại đây tại khu vực Biển Đông nhằm thách thức đòi hỏi quá đáng về chủ quyền của Trung Quốc ở vùng nước tranh chấp.
Hôm 7/1, đài CNBC của Mỹ dẫn nguồn tin từ Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ cho biết khu trục hạm USS McCampbell đã đi vào khu vực 12 hải lý của ba đảo Cây, Linh Côn và Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Người phát ngôn của hạm đội, bà Rachel McMarr được CNBC dẫn lời cho biết Hoa Kỳ đang thực hiện họat động tuần tra tự do hàng hải trên Biển Đông và hoạt động này không nhắm đến một quốc gia nào hay đưa ra bất kỳ một tuyên bố chính trị nào.
Người phát ngôn của hạm đội, bà Rachel McMarr được CNBC dẫn lời cho biết Hoa Kỳ đang thực hiện họat động tuần tra tự do hàng hải trên Biển Đông và hoạt động này không nhắm đến một quốc gia nào hay đưa ra bất kỳ một tuyên bố chính trị nào.
Tuy nhiên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt, thành viên quỹ Nghiên cứu Biển Đông của Việt Nam, chuyến tuần tra mới nhất của tàu Mỹ ở Hoàng Sa đang gửi ra một thông điệp tới Trung Quốc.
“Gần đây có việc chính phủ Mỹ đóng cửa thì Trung Quốc cũng tỏ ra có những hành động cứng rắn hơn. Gần đây nhất là các chiến đấu cơ của Trung Quốc đã yêu cầu một số máy bay nước ngoài phải khai báo với Trung Quốc trong vùng mà Trung Quốc tuyên bố là vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông. Điều đó cho thấy Trung Quốc muốn nhân dịp Hoa Kỳ đang bận rộn với những việc nội bộ của mình thì thể hiện sức mạnh của mình. Tôi nghĩ trong trường hợp đó thì lực lượng quân sự của Hoa Kỳ cũng có tiếng nói riêng và nó cho thấy là mối quan tâm của Hoa Kỳ đối với vấn đề Biển Đông chưa hề giảm sút.”
Hôm 4/1, một video clip được truyền hình Trung Quốc phát đi cho thấy một phi công Trung Quốc đang chuyển đi thông điệp bằng tiếng Anh yêu cầu một máy bay không xác định phải khai báo nhận diện vì đã đi vào vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông nơi Trung Quốc cũng đang có tranh chấp về chủ quyền với Nhật Bản.
Việt Nam cần có Mỹ
Những hoạt động FONOPS của Mỹ ở Biển Đông theo nhận định của một số chuyên gia quốc tế là đã giúp ích cho Việt Nam trong đối đầu Việt Trung liên quan đến vấn đề chủ quyền ở Biển Đông.
Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc, trong bài viết được đăng trên blog cá nhân hôm 5/12/2018 nhận định có ba lợi thế mà Việt Nam có được từ các hoạt động tuần tra của chương trình Tự do hàng hải của Hoa Kỳ (hay còn gọi là FONOPS):
“Thứ nhất, chương trình FONOPS duy trì thách thức về mặt pháp lý đối với các đòi hỏi quá đáng về chủ quyền không hợp lý của Trung Quốc…. Thứ hai, chương trình FONOPS giúp duy trì cân bằng lỏng của cường quốc biển tại Biển Đông vì các tuần tra của Hải quân Hoa Kỳ cho thấy sự hiện diện và là biểu tượng hiện hữu là Hoa Kỳ có quyền lợi ở Biển Đông. Thứ ba, FONOPS chuyển sự chú ý từ đối đầu Việt Trung trong trung tâm xung đột ở Biển Đông sang tập trung vào đối đầu Trung Mỹ”.
Trung Quốc hiện đòi hỏi đến 90% diện tích Biển Đông qua đường đứt khúc 9 đoạn nước này tự vẽ ra trên biển nhưng đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ tính hợp lý trong một phán quyết vào năm 2016.
Việt Nam là nước đã thành công trong việc góp phần khiến Mỹ lần đầu tiên lên tiếng bày tỏ lập trường của mình về vấn đề Biển Đông vào năm 2010 khi Việt Nam là Chủ tịch luân phiên của ASEAN.
Tại Hà Nội vào tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã khẳng định: “Hoa Kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia trong việc tự do đi lại, tự do đi vào vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên Asean hoặc những người tham dự Diễn đàn khu vực Asean, mà còn với các quốc gia gần biển khác và cộng đồng quốc tế rộng hơn”.
Nhận xét về vai trò của Hoa Kỳ đối với Việt Nam trong việc bày tỏ lập trường về vấn đề Biển Đông, Thạc sĩ Hoàng Việt nói:
“Việt Nam gần đây gần như đơn độc trong việc có một tiếng nói riêng ở khu vực Biển Đông. Trước đây Philippines có tiếng nói mạnh mẽ ở Biển Đông thì gần đây Tổng thống Duterte lại muốn hướng về Trung Quốc nên có hòa hoãn hơn. Cho nên Việt Nam cần một đồng minh tự nhiên, không phải là đồng minh ký kết. Đồng minh này phải ủng hộ quan điểm của Việt Nam cho nên vì vậy nếu có sự quan tâm của Hoa Kỳ trong khu vực này đặc biệt là Biển Đông thì tiếng nói của Việt Nam cũng sẽ tốt hơn.”
Hành động được cho là cứng rắn gần đây của Việt Nam với Trung Quốc là việc Việt Nam đưa ra những đề nghị trong bản dự thảo quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc. Việt Nam đã đề nghị không chấp nhận vùng nhận diện phòng không ở Biển Đông, làm rõ các vấn đề chủ quyền trên biển theo luật quốc tế, không chấp nhận đòi hỏi cấm tập trận với các nước ngoài khu vực trên Biển Đông do Trung Quốc đưa ra. Đây là những đề nghị được các chuyên gia quốc tế đánh giá là khó lòng được Trung Quốc chấp nhận.
Hoa Kỳ dưới thời của Tổng thống Donald Trump đã gia tăng các hoạt động tuần tra ở Biển Đông và có những hành động được cho là cứng rắn hơn với Trung Quốc trên lĩnh vực thương mại.
Theo thống kê của Sáng kiên Minh bạch Hàng hải Châu Á của Trung Tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế ở Mỹ, trong năm 2016, chính quyền của Tổng thống Obama thực hiện 3 cuộc tuần tra FONOPS. Nhưng kể từ sau khi Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền vào đầu năm 2017, chỉ trong khoảng thời gian từ tháng 5/2017 đến tháng 10 năm 2017, Hoa Kỳ đã thực hiện 4 cuộc tuần tra FONOPS ở Biển Đông.
Theo số liệu mà Đài Á Châu Tự Do thống kê từ các cuộc tuần tra FONOPS được truyền thông quốc tế đăng tải, trong năm 2018, tàu chiến Hoa Kỳ đã thực hiện ít nhất 5 cuộc tuần tra như vậy.
FONOPS dưới thời của Tổng thống Trump đã trở nên thường xuyên hơn và đã vượt quá mức đi qua không gây hại (innocent passage transits). – GS. Carl Thayer
Giáo sư Carl Thayer nhận định trong bài viết của mình rằng “FONOPS dưới thời của Tổng thống Trump đã trở nên thường xuyên hơn và đã vượt quá mức đi qua không gây hại (innocent passage transits)”
Theo Công ước về Luật biển của Liên hiệp quốc 1982, đi qua không gây hại có nghĩa là tàu chiến hay tàu ngầm đi qua vùng nước phải có cờ, và tàu ngầm phải đi nổi trên mặt nước.
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, những hoạt động tuần tra của FONOPS mặc dù vậy không có mấy tác dụng trong việc ngăn chặn Trung Quốc trong việc quân sự hóa khu vực Biển Đông, mà chỉ có tính thách thức về mặt pháp lý.
“Các hoạt động FONOPS chỉ thách thức chút ý về pháp lý chứ về mặt quân sự hóa thì không có gì nhiều. Nói cho cùng ngay cả các nhà nghiên cứu của Hoa Kỳ cũng xác nhận là không có cách nào ngăn cản và dẹp bỏ các cơ sở quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông trừ khi xảy ra chiến tranh mà cuộc chiến tranh đấy chắc cả Hoa Kỳ và Trung Quốc mong muốn điều đó.”
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, cả 7 thực thể địa lý và khu vực quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Quốc cho xây lấp kiên cố và thiết lập các căn cứ quân sự bất chấp những phản đối của Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác trong thời gian qua.
Tại cuộc họp báo sau Đối thoại Ngoại giao An ninh Mỹ Trung thường niên diễn ra vào tháng 11 năm ngoái, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì còn kêu gọi Hoa Kỳ ngưng đưa tàu chiến và máy bay quân sự tới gần các đảo mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền, đồng thời khẳng định Bắc Kinh có quyền xây dựng các cơ sở quốc phòng cần thiết trên những nơi được cho là lãnh thổ của Trung Quốc.
Không những thế, Trung Quốc gần đây còn điều tàu chiến đi sát đến mức nguy hiểm tàu chiến của Mỹ khi tàu Mỹ đi vào vùng 12 hải lý quanh các thực thể mà Trung Quốc bồi đắp ở vùng tranh chấp. Cụ thể là vụ tàu chiến Trung Quốc đi sát tàu Decatur của Mỹ chỉ ở khoảng cách 41 mét khi tàu này đi qua đá Gaven ở quần đảo Trường Sa vào hồi cuối tháng 9 vừa qua.
Chuyên gia quân sự Trung Quốc thậm chí còn kêu gọi tấn công tàu Mỹ. Hồi đầu tháng 12 vừa qua, tờ Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc trích lời ông Đái Húc, Đại tá không quân, Viện trưởng Viện an toàn hàng hải và hợp tác của Trung Quốc, nói rằng nếu tàu chiến Mỹ cứ tiếp tục đi vào lãnh hải Trung Quốc, thì Trung Quốc nên gửi hai tàu chiến đến vùng lãnh hải đó, một chiếc để chặn tàu Mỹ, còn chiếc kia sẽ đâm vào tàu của Mỹ.
Cựu sĩ quan tình báo Hải Quân Mỹ James Fanell trong một bản tường trình gửi Ủy ban tình báo thượng viện Mỹ hồi tháng đầu tháng 5 năm 2018, cho biết từ tháng 10/2015 trở lại đây, Trung Quốc đã cho tàu theo sát hầu như mọi hoạt động của tàu Hải quân Hoa Kỳ ở khu vực Biển Đông. Ông Fanell nhận định “tàu chiến hải quân Trung Quốc vào và hoạt động trong khu vực Biển Đông, chuyển chiến lược bao phủ khu vực sang chiến lược đối đầu trực tiếp. Sự thay đổi này cho thấy bằng chứng về ý định Trung Quốc sẽ sử dụng lực lượng quân sự để đạt dược những mục tiêu chiến lược qua đe dọa và bắt nạt, bất chấp việc họ vẫn khẳng định về sự phát triển hòa bình”
Để tăng cường sức ép lên Trung Quốc, Hoa Kỳ thời gian qua cũng kêu gọi các đồng minh tham gia vào chương trình FONOPS ở Biển Đông.
Anh Quốc hồi tháng 9 năm ngoái đã điều tàu chiến đi sát quần đảo Hoàng Sa. Theo Reuters, Bắc Kinh đã phải điều máy bay và tàu chiến ra để theo dõi tàu của Anh.
Trước đó, vào tháng 6, Pháp và Anh đã thực hiện hoạt động tuần tra chung qua Đá Vành Khăn, Subi và Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa đang tranh chấp giữa các nước. Theo Diplomat, trong năm 2017, Pháp đã cho ít nhất 5 tàu chiến đi vào khu vực Biển Đông.
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, những hoạt động FONOPS dồn dập của nhiều nước ở Biển Đông góp phần thách thức về mặt pháp lý đối với đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc và tỏ thái độ mạnh mẽ hơn đối với Trung Quốc nhưng sẽ không làm thay đổi được vấn đề quân sự hóa khu vực Biển Đông mà Trung Quốc đã và vẫn đang thực hiện.
0 nhận xét