Kỷ Hợi: Năm “đặc biệt” đối với Việt Nam? – Trần Nguyên
Thứ Ba, 5 tháng 2, 2019
17:29
//
Phân tích
,
Slider
I . Năm Kỷ Hợi “đặc biệt” đối với dân tộc VN?
Thực vậy nhìn lại dòng lịch sử VN trên 4000 năm sẽ thấy có nhiều năm Kỷ Hợi “đặc biệt” đối với sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Điển hình nhứt là 2 biến cố lịch sử:
a) Trước là nợ nước, sau là thù nhà, Hai Bà Trưng đã chuẩn bị đứng lên chống lại ách đô hộ người Tàu vào năm Kỷ Hợi 39 để phất cờ Vàng chính thức khởi nghĩa vào năm sau. Mặc dù không thành công, Hai Bà Trưng là tấm gương sáng ngời cho dân tộc VN và được coi là dẫn đầu hàng ngũ phụ nữ trong nhân loại dám làm chuyện “tày trời”: Phất cờ khởi nghĩa và lên ngôi vua (xem Nguồn 1)
b) Tiếp nối ý nguyện của Hai Bà Trưng, người anh hùng Ngô Quyền cũng đã đứng dậy đánh đuổi nhà Nam Hán, tạo ra nhà nước Việt Nam độc lập cho dân tộc VN vào năm Kỷ Hợi 939 và đã oai hùng phá được ách nô lệ Tàu từ 1146 năm qua (xem Nguồn 2). Công trạng lẫy lừng số 1 này đã bị sử sách đánh giá quá sai lầm, vì vậy chúng tôi đặc biệt đề cập & đánh giá lại trong phần III phía dưới.
II . Năm Kỷ Hợi 2019: Ánh sáng cuối đường hầm cho dân tộc VN?
Thực vậy nếu nhìn lại tình hình VN và Biển Đông từ mấy chục năm qua thì khúc quanh lịch sử đã bắt đầu vài năm qua và trong năm Kỷ Hợi 2019 có thể nói là nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.
1) Cuốn phim đặc biệt với tựa đề “Đại Họa Mất Nước”
Cách nay 9 năm vào năm 2010, anh em chúng tôi gồm 11 người trong Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy thấy viễn ảnh sẽ mất nước VN vào Đế Quốc Tàu nên đã tình nguyện quyết tâm thực hiện cuốn phim đặc biệt với tựa đề “Đại Họa Mất Nước” nhằm báo động với đồng bào trong và ngoài nước.
Noi theo ý nguyện tiền nhân – trong đó có Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy – anh em chúng tôi đã quyết định không bán mà hoàn toàn biếu không và cho phép phổ biến trên mọi phương tiện truyền thông để được phổ biến rộng rãi đến toàn dân. Không ngờ chỉ thời gian ngắn ngủi đã được đón nhận nồng nhiệt. Ngay ở trong nước cũng được truyền tay cho nhau xem đến nổi nhiều người bị bắt bớ & giam cầm. Điển hình là trường hợp nhà tranh đấu Hồ Thị Bích Khương – được tổ chức Human Rights Watch trao tặng Giải thưởng Hellman/Hammett năm 2011 và Giải thưởng Quyền Việt Nam 2015 – và Mục sư Nguyễn Trung Tôn (xem Nguồn 3) . Ở hải ngoại nhiều tổ chức và hội đoàn đã tự động xung phong mang cuốn phim này vào đăng trên trang web. Điển hình chỉ nội trên trang web Việt Vùng Vịnh đã có trên 2 triệu lần vào coi (xem Nguồn 4).
2) Mỹ mạnh & tự tin trở lại
Trong 24 năm dưới thời TT Clinton, TT Bush và TT Obama , chính quyền Mỹ đã chủ trương “làm ăn” với Trung Cộng cho nên hầu như “im lặng” thiệt thòi trước sự bành trướng của Bắc Kinh. Dựa vào nhược điểm của Mỹ, Trung Cộng đã thừa thắng trắng trợn tuyên bố phần lớn Biển Đông thuộc về chủ quyền của họ, trái ngược lại sự kiện từ ngàn năm qua quốc tế hoàn toàn tự do hàng hải. Các quốc gia khác – kể cả Âu Châu – thấy thái độ yếu hèn của Mỹ nên cũng không dám “chọc giận” Trung Cộng.
Nhưng tình hình đột nhiên thay đổi bất ngờ khi Mỹ dưới chánh quyền mới của TT Trump & PTT Pence từ năm 2017 đã có chính sách rõ ràng “cứng rắn” vì không coi Trung Cộng “bạn bè làm ăn” như thời trước nữa (xem Nguồn 5 & 6).
Thực ra điều này không gì đáng ngạc nhiên vì trong quá khứ vào ngày 21 Sep 2011, ông Trump đã công khai nhận định: “China is neither an ally or a friend – they want to beat us and own our country. / Trung Cộng không phải là đồng minh hay bạn bè – họ muốn đánh bại chúng ta và sở hữu đất nước của chúng ta.” (xem Nguồn 7)
Trong 2 năm qua, chính phủ Mỹ cho thấy rõ thái độ “gây hấn” với Trung Cộng qua các đạo luật và quyết định hoàn toàn bất lợi cho Bắc Kinh. Điển hình nhứt là lời tuyên bố chống Trung Cộng của PTT Pence và Đạo luật Sáng Kiến Tái Trấn An Châu Á – Asia Reassurance Initiative Act –(xem Nguồn 8)
Những dữ kiện khách quan này cho thấy nước Mỹ mạnh & tự tin trở lại giống y như tình trạng trước đây Cố TT Reagan đã thực hiện được để đối phó & “đánh” Liên Xô.
3) Mỹ và Đồng Minh trở lại Biển Đông chống lại Trung Cộng
Sự kiện nước Mỹ mạnh & tự tin trở lại khiến cho nhiều quốc gia không còn sợ lẻ loi chống Trung Cộng trước những bành trướng vô lý của Bắc Kinh. Điển hình là Nhựt đã cương quyết chống Trung Cộng muốn chiếm quần đảo Điếu Ngư khiến Bắc Kinh phải chịu thua.
Tương tự: Gần đây nhứt Pháp, Anh, Úc, Ấn Độ … đã dám công khai “chọc giận” Trung Cộng bằng cách gửi chiến hạm và hàng không mẫu hạm đến tuần tiểu tại Biển Đông ngay những nơi mà Trung Cộng lớn tiếng “ngang ngược” coi là hải phận của họ. Sự kiện này không thể tưởng tượng nổi có thể xảy ra dưới thời TT Clinton, TT Bush và TT Obama.
Cho nên trong quân đội Trung Cộng đã có nhiều tiếng nói sĩ quan cao cấp muốn “đánh” dằn mặt hải quân Mỹ vì thấy bị “nhục” mất mặt bị coi như kiểu con cọp “giấy”. Nhưng nếu “đánh” thì trúng kế vì Mỹ chỉ mong chờ như vậy để có cớ “khai chiến” chính thức như qua kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy với biến cố Trân Châu Cảng (1941) và Vịnh Bắc Việt (1964)
4) Khúc quanh lịch sử cho dân tộc VN?
Phía VN chúng ta không mong gì hơn là cuộc đụng độ giữa Mỹ và Trung Cộng càng ngày càng leo thang để Bắc Kinh không còn tiền bạc và thời gian để bành trướng như trước đây. Nhứt là không cho chiếm được Biển Đông bởi vì mất Biển Đông là hầu như VN sẽ từ từ mất nước.
Điều đáng chú ý trong 2 năm qua tác giả Ts Robert Farley – giáo sư tại Patterson School of Diplomacy và University of Kentucky – luôn luôn tiên đoán Biển Đông sẽ là ngòi nổ cho một cuộc chiến tranh giữa Mỹ & Trung Cộng –(xem Nguồn 9).
Nếu dẫn tới xảy ra cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Cộng thì càng có lợi cho sự sinh tồn dân tộc VN bởi vì kết quả dù thắng hay bại thì Trung Cộng cũng tan nát yếu hẳn đi khiến đế quốc này sẽ chia 5 xẻ 7 như trong lịch sử Tàu đã cho thấy.
Đó là cơ hội hiếm có để VN chúng ta dẹp được quốc nạn Cộng sản gần trăm năm qua , mà kinh nghiệm cho thấy giống như các nước Đông Âu chỉ may mắn thoát ách cộng sản khi nước Mỹ xuất hiện TT Reagan ngang tàng dám làm những chuyện “khác thường” (kiểu Vô Chiêu Thắng Hữu Chiêu) khiêu khích tấn công Liên Xô khiến Gorbachev phải kiêng dè đến nổi cải cách bỏ đường lối cứng rắn.
Bây giờ chánh phủ TT Trump & PTT Pence (thực hiện hầu như toàn bộ chánh sách của TT Reagan) tương tự ngang tàng làm kiểu “khác thường“ như vậy để đối phó phá tan mộng làm bá chủ hoàn cầu của Tập Cận Bình.
Trước tham vọng lộ rõ của Trung Cộng muốn dần dần thôn tính VN với tình trạng càng ngày Bắc Kinh cho người Tàu tràn ngập vào VN, chắc có lẽ tất cả dân VN không mong gì hơn viễn tượng Mỹ & Trung Cộng đánh nhau.
III . Năm Kỷ Hợi 939: Công trạng lẫy lừng nhứt trong lịch sử VN?
Thuở nhỏ còn đi học dưới mái trường trung học Ngô Quyền / Biên Hòa (ngôi trường công lập lớn nhứt miền Đông Nam Phần), chúng tôi được may mắn học một số Thày Cô giỏi dạy học môn sử địa. Các Thày Cô đa số thuộc thế hệ trẻ mới ra trường nên có những ý tưởng lạ, lại giảng thêm ra ngoài sách giáo khoa, bởi vậy giờ sử địa không đến nổi bị buồn tẻ. Chẳng hạn khi giảng về tài quân sự của vua Quang Trung (1753 – 1792 ), có Thày Cô đã so sánh với vua Napoleon ( 1769 – 1821 ) cùng thời ở bên Âu Châu và cho rằng vua Quang Trung hơn hẳn vì suốt đời bách chiến bách thắng, còn vua Napoleon cuối cùng bị thất trận, rồi bị chết trong tù đày. Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn. Ngoài ra các Thày Cô có quan điểm về sử học mà sau này chúng tôi có dịp so sánh thấy tân tiến không thua các quốc gia Âu Mỹ. Nhờ vậy ngay từ hồi đó chúng tôi thực sự đã thất vọng khi khám phá thấy trong sử Việt đã đánh giá quá sai lầm về sự nghiệp của vua Ngô Quyền.
Nay, chúng tôi mạo muội mang chút sở học để nhận định trung thực về sử học có liên quan đến vua Ngô Quyền.
1) Thực trạng chậm tiến về sử học Việt Nam
a. Nhận xét của sử gia Trần Trọng Kim
Trước đây trên nửa thế kỷ, sử gia Trần Trọng Kim đã đưa ra nhận xét:
“Xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên chế. Cả nước chỉ cốt ở một họ làm vua. Cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa ấy mà chép su, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự học vấn là mấy. Sử của mình đã không hay, mà người mình lại không mấy người biết sử. Là vì cái cách học tập của mình làm cho người mình không có thể biết được sử nước mình. Bất kỳ lớn nhỏ, hể ai cắp sách đi học thì chỉ học sử Tàu, chứ không học sử nước nhà.“
b. Nguyên nhân sâu xa
Nhưng xét cho thực kỹ sẽ thấy còn thêm vài nguyên nhân sâu xa khác đóng vai trò chính yếu nữa.
i) Tài liệu sử học Việt bị Tàu huỷ bỏ hoặc bị thất lạc
Việt Nam bị Tàu đô hộ lần đầu 1146 năm. Trong thời kỳ này Trung Hoa thi hành chính sách đồng hóa nên tất cả liên hệ đến tinh thần dân tộc đều bị triệt hạ. Trong đó các tác phẩm sữ học bị chiếu cố đến trước nhứt. Cho nên chúng ta mất hết những dử kiện sử học chính xác về thời kỳ trước khi vua Ngô Quyền lấy lại được độc lập. Trong lần bị đô hộ lần thứ nhì 20 năm, tuy ngắn ngủi hơn, nhưng tầm tai hại không thua kém gì, vì lần này Tàu thực hiện chính sách đồng hóa tinh vi hơn. Trong đó – ngoài việc thiêu hủy sách vở – còn thêm màn bắt những thành phần ưu tú của VN qua Tàu với mục đích vừa vét cạn nhân tài Việt khỏi sợ nổi dậy vừa có nhân lực xuất sắc phục vụ cho dân Tàu. Đó là trường hợp Nguyễn Phi Khanh (thân phụ của Nguyễn Trải), Hồ Nguyên Trừng (chế tạo được súng thần công) cũng như kiến trúc sư và thợ giỏi của VN đã xây dựng kinh thành Bắc Kinh cho nhà Minh (xem Tạp Chí Viên Giác / Âu Châu).
Ngoài ra, các cuộc tranh chấp đẩm máu kéo dài từ thời Lê, Mạc, Trịnh, Nquyễn, Tây Sơn, Pháp thuộc, Quốc Cộng đã làm thất lạc nhiều tài liệu quý báụ Điển hình , một mất mát rất lớn cho nền sử học VN, vào năm 1946 bị đốt nhà nên sử gia Trần Trọng Kim mất hết tài liệu để xuất bản nối tiếp cho quyển Việt Nam Sử Lược. Dĩ nhiên trong hoàn cảnh như vậy khó tìm ra được điều kiện thuận lợi và nhân lực cho việc viết sử.
ii) Lệ thuộc vào tài liệu và tư tưởng của Tàu
Mất hết tài liệu Việt, các sử gia ta phải trông cậy & lệ thuộc vào nguồn cung cấp tài liệu của Tàu và bị ảnh hưởng không ít khi đưa ra phán đoán liên hệ . Sử gia Tàu dĩ nhiên phải binh vực cho dân tộc họ và sẳn sàng bẻ cong ngòi bút chà đạp tinh thần ái quốc của các quốc gia láng giềng bị trị – trong đó có Việt Nam – . Điển hình họ đã xuyên tạc danh tánh gọi Bà Triệu Thị Trinh thành Triệu Ẩu ( con mụ già họ Triệu ), Trưng Chắc thành Trưng Trắc ( có ý nghĩa xấu kiểu phản trắc ), Trưng Nhì thành Trưng Nhị ( có ý nghĩa xấu kiểu nhị tâm – hai lòng – ). Từ ngàn năm trước , các sử gia Việt lầm lẩn chép lại nguyên văn cho tới mải quyển Việt Nam Sử Lược vẫn còn lổi lầm sơ đẳng này.
iii) Tệ trạng giáo điều và khả năng nhận định của các sử gia
Rút kinh nghiệm sụp đổ của các triều đại trước , nhà Tống (960 – 1279) bên Tàu đã xử dụng một số trí thức đưa tư tưởng Tống nho có tính cách giáo điều ( dogma ) với mục đích bảo vệ ngai vàng . Từ đó phát sinh ra chủ trương mù quáng mà lại được coi là khuôn vàng thước ngọc như: ” Quân xử thần tử , thần bất tử bất trung”. Các triều đại Trung Hoa sau này (kể cả Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch) vẫn tiếp tục theo chính sách này để bảo vệ quyền lực . Các vua đầu tiên của nhà Hậu Lê thấy có lợi cho triều đại , nên đã bắt chước theo. Trong hoàn cảnh đó , bộ luật Hồng Đức ( từng được Đại học Harvard chọn cho chuyển dịch vào năm 1984 ) được biên soạn với tính cách giáo điều và được áp dụng lâu nhất & có ảnh hưởng lớn nhứt đối với dân tộc Việt cho đến mãi ngày nay. Thực vậy , trước thời Hậu Lê thấy còn rất nhiều tình nghĩa giửa vua tôi và ngay trong hoàng tộc ít có những tranh chấp giết nhau tàn bạo . Chính nhờ vậy dân tộc Việt đã đoàn kết và xây dựng đất nước hùng mạnh với những chiến công lẩy lừng ” phá Tống bình Chiêm , đại phá quân Mông Cổ , 10 năm kháng chiến đuổi quân Minh ” Nhưng bắt đầu từ thời Hậu Lê tới nay, rất thường xảy ra những tranh quyền đẩm máu và từ đó phát sinh ra nạn bè phái gây ra nội chiến liên tiếp làm chia rẻ dân tộc Việt đưa đến hận thù triền miên. Chính tinh thần giáo điều đưa tới chia rẻ & hận thù đã xô đẩy VN từng có trang sử oai hùng dần dần thoái hóa trở thành một trong những quốc gia lạc hậu nhứt thế giới. Trong hoàn cảnh được hun đúc giáo dục như thế, một số lớn các sử gia Việt đã viết thiên vị cho phe phái mà mình đang phục vụ.
Mặt khác khách quan cho thấy phần lớn các sử gia thời xưa không được đào tạo chuyên môn như bây giờ và đôi khi xem chuyện viết sử không phải nghề nghiệp chính. Cho nên thiếu khả năng nhận định chuyên nghiệp & khoa học như ngày nay ở Âu Mỹ.
c. Một vài sai lầm tiêu biểu
Tất nhiên như thế đưa đến nhiều sai lầm trong sử Việt , mà trong khuôn khổ giới hạn của bài viết này , chúng tôi xin đơn cử tiêu biểu.
i) Thói quen phóng đại
Điển hình, nhằm mục đích đề cao chiến thắng của tiền nhân , các sử gia đã phóng đại quân số tham chiến. Chẳng hạn sử gia Lê Văn Hưu trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết rằng vua Ngô Quyền năm 938 phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo. Thực sự con số trăm vạn (1 triệu!) không thể nào có được, vì ngay toàn thể quân đội Nam Hán cũng chưa chắc tới 1 triệu. Tương tự đã phóng đại chuyện vua Quang Trung năm 1789 phá tan 20 vạn (2 trăm ngàn!) quân Thanh . Nên nhớ rằng dân số VN cứ 30 năm tăng gấp đôi theo toán học cấp số nhân. Năm 1945 với 20 triệu dân, năm 1975 với 40 triệu dân và năm 2005 với 80 triệu dân . Như vậy dân số VN trước đây 1000 năm hoặc 200 năm chắc chắn rất ít, cho nên làm sao có đủ quân số tương đương để đánh thắng địch quân đông đảo như vậy được.
ii) Quan điểm phê bình lỗi thời
Phê bình về vua Hồ Quý Ly, sử gia Trần Trọng Kim chỉ trích vì có hành động bất trung tiếm đoạt ngôi vua trái với đạo lý, trong khi đó sử gia Phạm Văn Sơn lại ca ngợi vì ngưỡng mộ cải cách mới.
Xét trong lịch sử, mưu đoạt quyền lực là thực tế đương nhiên , nên không thể dựa vào quan điểm đạo lý để phê bình, bởi lẻ chính nhà Trần cũng đoạt ngôi vua của nhà Lý. Tương tự, cũng không thể ca ngợi vua Hồ Quý Ly được, vì trong vai trò chỉ huy vua Hồ Quý Ly phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đã đưa ra chính sách lãnh đạo sai lầm cuối cùng dẩn đến chiến tranh làm mất nước. Cho nên một nhân vật lãnh đạo xứng đáng được vinh danh chỉ khi nào bản thân làm cho đất nước được hùng mạnh và trường tồn . Đó cũng là quan điểm của các sử gia nước Đức, khi họ kết án lãnh tụ Hitler đã mù quáng phiêu lưu quân sự đưa đến hậu quả khiến dân chúng tổn thất nhân mạng nặng nề và đất nước bị xâu xé chia đôi , mặc dù Hitler cũng có nhiều điểm xuất sắc trong lúc nắm quyền.
Trong chiều hướng đó , chúng ta thử nhìn lại kỹ càng xem có phải lịch sử cũng đã đánh giá sai lầm lớn về công lao của vua Ngô Quyền .
2) Nhìn lại sự nghiệp vĩ đại của vua Ngô Quyền
a. Cuộc đời đặc biệt của vua Ngô Quyền
Sinh năm 897 , là con trai của quan thứ sử Ngô Mân , Ngô Quyền tỏ ra có chí lớn và bản lảnh hơn người. Năm 920 Ngô Quyền vào Thanh Hóa (Ái Châu) đầu quân đi theo tướng Dương Diên Nghệ và đánh đuổi được giặc Nam Hán lần thứ nhứt vào năm 931. Dương Diên Nghệ lên nắm quyền tự xưng Tiết độ sứ, gả con gái và giao Ái Châu cho Ngô Quyền. Nắm quyền cai trị, Ngô Quyền tỏ ra là người lảnh đạo tài giỏi, được lòng dân và xây dựng được một lực lượng hùng mạnh. Năm 937 Dương Diên Nghệ bị thuộc tướng Kiều Công Tiển sát hại. Hay tin dữ, Ngô Quyền kéo quân từ Thanh Hóa vượt đèo Ba Dội tiến vào thành Đại La chém đầu kẻ nội thù Kiều Công Tiển. Vua Nam Hán nhân cơ hội nước ta nội loạn bèn phái con trai Lưu Hoằng Tháo mang thủy quân đi trước mưu lập lại nền đô hộ mới. Để phá quân địch, Ngô Quyền đã bố trí trận địa cọc ( đầu cọc bịt sắt đóng ngầm dưới nước ) ở cửa sông Bạch Đằng. Đoàn binh thuyền Nam Hán dựa vào lúc thủy triều lên từ biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị dẩn dụ vào thế trận bày sẳn. Chờ khi thủy triều xuống, Ngô Quyền cho phản công với sự hổ trợ của quân mai phục ở phía trong bải cọc và ở bên bờ. Chiến thuyền Nam Hán bị mắc cọc chìm gần hết và Lưu Hoằng Tháo bị bắt giết tại trận. Trận chiến Bạch Đằng xảy ra quá nhanh khiến cho vua Nam Hán đang đóng quân ở sát biên giới trở tay không kịp để cứu con và đành thương khóc rút quân về bỏ lại tham vọng muốn chiếm nước ta.
Sau khi đuổi được quân Nam Hán ra khỏi bờ cỏi, Ngô Quyền xưng vương. Nhà vua tổ chức lại cơ cấu khởi đầu nền độc lập sau 1146 năm Bắc thuộc.
b. Công lao hiếm có của vua Ngô Quyền
i) Một thiên tài quân sự
Trong chiến dịch đánh đuổi quân Nam Hán , Ngô Quyền biểu lộ một thiên tài quân sự hiếm có:
- Ông đưa ra kế sách ” trước trừ nội phản sau diệt ngoại xâm “, cho hành quân chớp nhoáng ” tốc chiến tốc thắng ” từ Thanh Hóa vượt đèo Ba Dội tiến vào Hà Nội khiến Kiều Công Tiển trở tay không kịp đành chịu bêu đầu . Quân Nam Hán mất đi nội ứng nên đã hoang mang mất tinh thần trước khi lâm trận.
Kế sách ” trước trừ nội phản sau diệt ngoại xâm ” sau này còn được dùng nhiều lần trong lịch sử Việt. Riêng vua Quang Trung học hỏi áp dụng chiến thuật hành quân chớp nhoáng đã bách chiến bách thắng ghi lại chiến công đại phá quân Xiêm (1782) và quân Thanh (1789).
- Sau đó ông đã đoán trúng con đường tiến quân của địch và chọn chiến trường để dẩn dụ địch lọt vào bẩy . Mặc dù Bạch Đằng Giang là trận thủy chiến đầu tiên trong lịch sử Việt , nhưng Ngô Quyền đã biết nghiên cứu khoa học nhìn thấy hiện tượng thủy triều lên xuống để phối hợp địa thế của sông Bặch Đằng và nảy sáng kiến ra được trận địa cọc rất đặc biệt trong lịch sử chiến tranh . Chỉ một trận duy nhứt này, toàn bộ thủy quân Nam Hán với Thái tử Lưu Hoằng Tháo bị tiêu diệt khiến vua tôi nhà Nam Hán quá kinh sợ không còn dám tính chuyện xâm lăng nữa. Chi’nh vì thua trận chiến này và bị mất thuộc địa VN nên nhà Nam Hán bị lụn bại dần rồi bị sụp đỗ.
Sáng kiến với trận địa cọc sau này được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn học hỏi bắt chước dùng để đại phá quân Nguyên cũng tại Bạch Đằng Giang ( 1288 ) và bắt trọn ổ tướng lảnh địch với Ô Mã Nhi , Phàn Tiếp …. . Trận thủy chiến này đã khiến vua tôi nhà Nguyên – từng lẩy lừng bách chiến bách thắng nhiều nơi trên thế giới – phải đâm ra nể sợ biệt tài quân sự của dân tộc Việt nên không còn dám mang quân xâm lược lần nữa.
ii) Một nhà lãnh đạo tài ba
Ngô Quyền được thiên phú có tài chỉ huy lãnh đạo. Nắm trong tay đất Ái Châu , ông đã thu phục nhân tâm xây dựng thành bàn đạp cho sự nghiệp đế vương sau này.
Sau khi đánh đuổi xong quân Nam Hán , ông đã đi nước cờ cao là không thèm xưng làm Tiết độ xứ như những nhà lãnh đạo VN trước đây , mà chính thức xưng vương . Hành động đầy khôn ngoan này muốn biểu dương chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1146 năm . Vua Ngô Quyền chọn Cổ Loa làm kinh đô và xây dựng hệ thống cầm quyền mới.
Khác hẳn các anh hùng liệt nữ nổi dậy thời trước , vua Ngô Quyền và nhà Ngô đã biết chọn đường lối ngoại giao uyển chuyển bằng cách hòa hoản chịu thần phục để không khiêu khích gây chiến tranh vô ích với phương Bắc . Chính sách ngoại giao thực tế này là tấm gương sáng được các triều đại VN sau này noi theo để đất nước được trường tồn.
iii) Luận về công lao của vua Ngô Quyền
- Công lao lẩy lừng nhứt của vua Ngô Quyền là dành lại độc lập cho dân tộc Việt sau 1146 năm bị Bắc thuộc. Nên nhớ rằng Hán tộc bắt đầu chỉ ở khu vực sông Hoàng Hà, có chủ trương xâm lược các nước láng giềng và đã đồng hóa được hàng trăm sắc tộc khác để trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới. Chỉ có một mình dân tộc Việt thoát được đại nạn đồng hóa khủng khiếp đó và phần lớn nhờ vua Ngô Quyền kịp thời dành được độc lập.
Tại sao vậy?
Bởi lẻ lúc đó Trung Hoa bị yếu đi vì tranh chấp kịch liệt trong thời Ngũ Đại. Cơ hội ngàn năm một thuở hiếm có này chỉ xảy ra một lần trong dòng lịch sử và đã được vua Ngô Quyền sáng suốt biết khai thác triệt để hòng tái lập được độc lập cho nước ta . Nếu như chậm trể chỉ cần 2 thập niên sau, khi Triệu Khuông Dẩn tái thống nhứt Trung Hoa thiết lập nhà Tống hùng mạnh thì chúng ta khó lòng thoát khỏi vòng đô hộ Tàu và sẽ bị đồng hóa vĩnh viễn như hàng trăm sắc tộc khác đã bị mất nước.
- Công lao thứ nhì thực sự còn có tầm quan trọng hơn nữa của vua Ngô Quyền là để lại di sản quân sự & ngoại giao tuyệt vời ( như phần trên đã đề cập đến ) cho đời sau noi theo và nhờ đó đã giử cho nước Việt được trường tồn.
3) Vua Ngô Quyền có công lao đứng đầu trong lịch sử VN ?
Như vậy , khách quan phải nhìn thấy rằng công lao của vua Ngô Quyền xứng đáng đứng hàng đầu trong lịch sử Việt . Nhận định này không phải chỉ riêng chúng tôi nêu ra, mà trước đây nhà cách mạng Phan Bội Châu (1867 – 1940) cũng đã nhìn thấy và công nhận vua Ngô Quyền là Tổ Trung Hưng của dân tộc Việt. Nhưng có lẻ vì cầm quyền chỉ 6 năm quá ngắn , trên thực tế không có sử gia nào chịu ảnh hưởng trực tiếp, nên công lao trung hưng vô cùng hiếm có đó của vua Ngô Quyền ít được đề cập & vinh danh trong sử sách một cách xứng đáng. Vã lại phần lớn các nhà cầm quyền chỉ ưa thích ca ngợi những bậc anh hùng cầm quân đoạt được chiến công lớn . Điển hình , danh tiếng của vua Quang Trung và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được biết tới nhiều hơn vua Ngô Quyền , mặc dù hai vị này chỉ đáng hàng đệ tử, vì đã từng học hỏi bắt chước những sáng kiến quân sự của vua Ngô Quyền.
Khách quan mà nói, từ lúc lập nước đến nay có 2 nhân vật lịch sử có công lao với đất nước mà không ai có thể sánh được. Đó là:
a) Vua Hùng Vương thứ nhất được tôn vinh là Quốc Tổ với công lao dưng nước sáng lập ra quốc gia VN. Không có vua Hùng Vương thứ nhứt thì không thể nào có quốc gia Việt Nam.
b) Vua Ngô Quyền xứng đáng với danh xưng là Tổ Trung Hưng có công lao vĩ đại đã phá tan được ách đô hộ Tàu kéo dài 1146 năm. Không có vua Ngô Quyền thì chắc chắn dân tộc Việt Nam bị đồng hóa và không còn sinh tồn đến ngày hôm nay.
Tuy nhiên xét kỹ lại, vua Hùng Vương thứ nhứt chỉ hiện diện trong huyền sử truyền khẩu không có bằng chứng chính xác. Mặc dù vậy được tôn thờ khắp nơi. Còn công lao vô cùng quan trọng của vua Ngô Quyền là chuyện có thực thì hầu như không được trọng vọng. Thực là khác xa nếu so sánh với hầu hết tất cả các dân tộc khác. Họ chỉ vinh danh tôn thờ nhân vật có thực và có công lao làm trung hưng đất nước mà thôi.
Thực vậy, hai thí dụ điển hình sau:
i) với Thủ Tướng Bismarck ( 1815 – 1898 ) cũng có công lao tái lập quốc gia Đức vào năm 1871 được sử sách Đức vinh danh đứng hàng đầu , mà cụ thể nhứt hầu như thành phố nào ở Đức cũng có đường xá , trường học , công trường …. mang tên Bismarck.
ii) với Tổng Thống Tôn Dật Tiên (1866 – 1925) có công lao đứng lên lật đỗ triều đại Mãn Thanh rửa nhục Trung Hoa bị đô hộ kéo dài trong 267 năm (1644 – 1911) và được tôn xưng là Quốc Phụ của cả 2 chính quyền thù nghịch Đài Bắc và Bắc Kinh. Còn vị vua đầu tiên trong huyền sử của Trung Hoa (Hiên Viên Hoàng Đế) thì không hề có một ngày nghỉ lễ hoặc một tượng thờ.
4. Đề nghị cụ thể
Qua những dẫn chứng trên đã cho thấy sử Việt đã đánh giá quá sai lầm về sự nghiệp của vua Ngô Quyền.
Như vậy, đã đến lúc phải điều chỉnh lại để vua Ngô Quyền ít nhứt cũng được vinh danh đứng hàng đầu bên cạnh vua Hùng Vương thứ nhất.
Cụ thể nhứt là:
a) Quyết định chọn ngay một ngày nghỉ lễ trong năm – như vua Hùng Vương đã được hưởng – để vinh danh công lao đứng hàng đầu của vua Ngô Quyền và nhờ đó toàn dân luôn luôn cảnh giác được trước hiểm họa mất nước từ phương Bắc.
b) Thực là đau lòng khi thấy lăng tẩm vua Ngô Quyền hiện nay quá tầm thường nhỏ bé. So lại biết bao nhiêu lăng tẩm khác rất hoành tráng lớn gấp chục lần dành cho những nhân vật không xứng đáng trong lịch sử . Còn hổ thẹn hơn nữa khi nhìn sang nước Trung Hoa, họ đã xây lăng tẩm cho Tổng Thống Tôn Dật Tiên ngay tại thành phố Nam Kinh to lớn vĩ đại gấp cả trăm lần. Chính vì vậy Việt Nam cần phải trùng tu lại lăng tẩm trang trọng cho xứng đáng địa vị đứng đầu công lao trong lịch sử Việt Nam và ngay trong lịch sử thế giới cũng khó tìm thấy một nhân vật nào trung hưng lại quốc gia & dân tộc sau suốt 1146 năm bị đô hộ.
c) Song song đó, ít nhứt ra mổi một tỉnh nên có trường học và đường phố mang tên Ngô Quyền. Được như vậy mới xứng đáng vinh danh một nhân vật có công lao đứng hàng đầu trong lịch sử và chính thức trở thành một thần tượng (idol) cho tất cả những trái tim yêu nước Việt Nam, giống như Hoa Kỳ có TT Washington, Trung Hoa có TT Tôn Dật Tiên, Đức có TT Bismark ..
Mong sẽ được như vậy và trường trung học Ngô Quyền / Biên Hòa rồi sẽ có thêm rất nhiều trường trung học “anh em” khác cũng được mang cùng tên Ngô Quyền trên quê hương Việt Nam yêu dấu.
Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi / 2019
Nguồn 1: Hai Bà Trưn
g
Nguồn 2: Ngô Quyền
Nguồn 3: Nhà tranh đấu Hồ Thị Bích Khương và Mục sư Nguyễn Trung Tôn bị giam cầm vì phổ biến cuốn phim Đại Họa Mất Nước
Nguồn 4: Cuốn phim đặc biệt với tựa đề “Đại Họa Mất Nước”
Nguồn 5: TT Trump “đánh” Trung Cộng
Nguồn 6: TT Trump theo chân TT Reagan
Nguồn 7: Trung Cộng không phải là đồng minh hay bạn bè – họ muốn đánh bại chúng ta và sở hữu đất nước của chúng ta
Nguồn 8: Chánh sách Mỹ chống Trung Cộng qua PTT Pence và ngày 31-12-2018, TT Trump ký “Đạo luật Sáng Kiến Tái Trấn An Châu Á” (Asia Reassurance Initiative Act / ARIA)
Nguồn 9: Biển Đông sẽ là ngòi nổ cho một cuộc chiến tranh giữa Mỹ & Trung Cộng
0 nhận xét